SKKN Một số biện pháp để dạy nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về nghĩa cho học sinh Lớp 5
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp để dạy nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về nghĩa cho học sinh Lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số biện pháp để dạy nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về nghĩa cho học sinh Lớp 5
I. Phần mở đầu : 1. Lý do chọn sáng kiến kinh nghiệm : 1.1. Tính lịch sử của vấn đề nghiên cứu : Trường Tiểu học là nơi đầu tiên trẻ em được học tập Tiếng Việt, chữ viết với phương pháp nhà trường, phương pháp học tập tiếng mẹ đẻ một cách khoa học. Học sinh tiểu học chỉ có thể học tập các môn khác khi có kiến thức Tiếng Việt. Bởi đối với người Việt, tiếng Việt là phương tiện giao tiếp, là công cụ trao đổi thông tin và chiếm lĩnh tri thức. Hơn nữa, con người muốn tư duy phải có ngôn ngữ. Cả những lúc chúng ta nghĩ thầm trong bụng, chúng ta cũng “bụng bảo dạ” cũng nói thầm, tức là cũng sử dụng ngôn ngữ, một hình thức ngôn ngữ mà các nhà chuyên môn gọi là ngôn ngữ bên trong. Còn thông thường thì chúng ta thể hiện ra ngoài kết quả của hoạt động tư duy, những ý nghĩ tư tuởng của chúng ta thành những lời nói, những thực thể ngôn ngữ nhất định. Ngôn ngữ là công cụ, là hiện thực của tư duy. Bởi lẽ đó, tư duy và ngôn ngữ có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Người có tư duy tốt sẽ nói năng mạch lạc, trôi chảy và nếu trau dồi ngôn ngữ được tỉ mỉ, chu đáo thì sẽ tạo điều kiện cho tư duy phát triển tốt. Môn Tiếng Việt trong trường tiểu học không thể là bản sao từ chương trình khoa học Tiếng Việt vì trường có nhiệm vụ riêng của mình. Nhưng với tư cách là một môn học độc lập, Tiếng Việt có nhiệm vụ cung cấp cho HS những tri thức về hệ thống Tiếng Việt (hệ thống âm thanh, cấu tạo từ, cấu trúc ngữ pháp, khả năng biểu cảm của ngôn ngữ, quy tắc hoạt động của ngôn ngữ). Đồng thời, kiến thức môn Tiếng Việt hình thành cho HS kĩ năng giao tiếp (nghe, nói, đọc, viết). Ngoài ra, Tiếng Việt còn là công cụ giao tiếp và tư duy cho nên nó còn có chức năng kép mà các môn học khác không có được, đó là: trang bị cho HS một số công cụ để tiếp nhận và diễn đạt mọi kiến thức khoa học trong nhà trường, là công cụ để học các môn học khác; kĩ năng nghe, nói, đọc, viết là phương tiện là điều kiện thiết yếu của quá trình học tập. Bên cạnh chức năng giao tiếp, tư duy ngôn ngữ còn có chức năng quan trọng nữa đó là thẩm mĩ, ngôn ngữ là phương tiện để tạo nên cái đẹp, hình tượng nghệ thuật. Trong văn học, HS phải thấy được vẻ đẹp của ngôn ngữ. Vì thế ở trường 1 3. Thời gian và địa điểm : Từ tháng 8/2013 đến tháng 3/2014. Học sinh lớp 5 - Trường Tiểu học Quyết Thắng. 4. Đóng góp mới về mặt thực tiễn : Trong các tiết học, giáo viên muốn phát huy được tính tích cực của học sinh, cho các em phát hiện từ khó nhưng chưa cho học sinh hiểu nghĩa từ bằng cách diễn đạt dễ hiểu, gây ấn tượng để các em nhớ lâu, Khi tìm hiểu nghĩa của từ có giá trị nghệ thuật trong văn bản tập đọc không có định hướng rõ ràng, cụ thể học sinh lan man, không có trọng tâm. Hoặc một số giáo viên khi dạy khái niệm các lớp từ có quan hệ ngữ nghĩa giáo viên hướng dẫn học sinh phân biệt từ đồng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ đồng âm chưa rõ ràng, cụ thể khiến nhiều em còn lúng túng khi được hỏi đến....Tất cả những thực tế trên đều làm giảm hiệu quả của tiết dạy Tiếng việt ở lớp 5 hiện nay. 3 dạy học phù hợp với các đối tượng học sinh trong lớp để học sinh nào cũng nắm chắc kiến thức về từ, củng cố tri thức mới, rèn luyện các kỹ năng cơ sở, phát triển tư duy, ngôn ngữ... giúp học sinh tự tin hơn khi giao tiếp. 1. 2. Cơ sở thực tiễn : Chương trình các môn học ở trường tiểu học hiện nay đã được sắp xếp một cách khoa học hệ thống song đối với học sinh tiểu học là bậc học nền tảng, đến trường là một bước ngoặt lớn của các em trong đó hoạt động học là hoạt động chủ đạo, kiến thức các môn học về tự nhiên và xã hội chưa được bao nhiêu, vốn từ sử dụng vào trong cuộc sống để diễn đạt trình bày tư tưởng, tình cảm của mình còn quá ít. Mặc dù vấn đề nghĩa của từ, các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa và việc dạy vấn đề này ở trường tiểu học không gây nhiều tranh cãi như việc dạy nội dung cấu tạo từ nhưng đây lại là công việc không mấy dễ dàng bởi vì nghĩa của từ là một vấn đề phức tạp, trừu tượng, khó nắm bắt trong khi đó tư duy của học sinh tiểu học chủ yếu thiên về cụ thể tư duy trừu tượng phát triển nhưng ở mức độ thấp. Các em thường lẫn lộn giữa từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa - từ đồng âm, giải nghĩa từ còn mang tính chung chung, không chính xác. Hơn thế nữa, các em chưa ý thức được vai trò xã hội của ngôn ngữ, chưa nắm được các phương tiện kết cấu và quy luật cũng như họat động chức năng của nó. Mặt khác, HS cần hiểu rõ người ta nói và viết không chỉ cho riêng mình mà cho người khác nên ngôn ngữ cần chính xác, dễ hiểu, tránh làm cho người khác hiểu sai nội dung câu, từ, ý nghĩa diễn đạt. Chính vì vậy việc dạy nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa có rất nhiều giáo viên trong trường quan tâm song chưa có ai nghiên cứu nên tôi đã chọn vấn đề này giúp học sinh tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc khi học mảng kiến thức này của môn TV. 5 - Tổ chức thao giảng các cấp để giáo viên được cọ sát, học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp. + Về phía giáo viên: - Phần lớn giáo viên của trường có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đạt và vượt chuẩn, nhiều giáo viên đạt danh hiệu giáo viên dạy giỏi các cấp. - Giáo viên trong các tổ, khối chuyên môn luôn tự học hỏi để bổ sung, cập nhật kiến thức phục vụ cho công tác giảng dạy của mình. - Giáo viên quan tâm đến các đối tượng học sinh, nhiệt tình trong công tác giảng dạy. + Về phía học sinh: - Phần nhiều học sinh ngoan, tích cực trong học tập và rèn luyện. - Các em có đầy đủ đồ dùng học tập, sách giáo khoa, vở viết đúng quy định. - Phụ huynh học sinh luôn quan tâm đến việc rèn luyện học tập HS, có sự kết hợp giữa phụ huynh, giáo viên và các lực lượng giáo dục trong, ngoài Nhà trường. * Khó khăn: + Về phía giáo viên: - Đôi khi ở một số tiết giáo viên chuẩn bị đồ dùng dạy học còn sơ sài chưa kích thích được sự hứng thú, tìm tòi, sáng tạo của học sinh. - Một vài giáo viên chưa nhanh nhạy trong việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, lấy học sinh làm trung tâm. + Về phía học sinh: - Một số ít học sinh còn lười học, làm bài còn cẩu thả, làm các bài toán dưới hình thức qua loa cho xong. - Một số gia đình chưa thực sự quan tâm đến việc học của con mình, còn giao phó việc rèn luyện và học tập của học sinh cho Nhà trường. 2.1.2. Khảo sát : * Dự giờ : Ngay từ những ngày đầu năm học, tôi dự giờ thăm lớp của giáo viên cùng khối. 7 sinh lớp 5” trong năm học 2013 – 2014, tôi nhận thấy hiệu quả giờ học cao hơn, học sinh hứng thú học, giờ học thật vui, thật nhẹ nhàng, sôi nổi đặc biệt mỗi học sinh đều được bộc lộ suy nghĩ về vốn sống, vốn từ của mình 2.2. Các giải pháp : Biện pháp dạy nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa: Nghĩa của từ được hiểu là nội dung đối tượng vật chất, là sự phản ánh đối tượng của hiện thực (một hiện tượng, một quan hệ, một tính chất, hay một quá trình) trong nhận thức, được ghi lại bằng một tổ hợp âm thanh xác định. Để tăng vốn từ cho học sinh, ngoài việc hệ thống hóa vốn từ, công việc quan trọng là làm cho học sinh hiểu nghĩa từ, phân biệt được các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa. Đây là nhiệm vụ quan trọng trong sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em. Việc dạy nghĩa của từ được tiến hành trong tất cả các giờ học, bất cứ ở đâu có cung cấp từ ngữ, thuật ngữ, khái niệm, thì ở đó có dạy nghĩa từ. Bài tập giải nghĩa từ xuất hiện trong phân môn LTVC không nhiều nhưng việc giải nghĩa từ lại chiếm vị trí rất quan trọng trong các bài học MRVT. Việc cho các em hiểu nghĩa các từ chủ điểm, từ trung tâm của mỗi trường nghĩa là vô cùng cần thiết. Trong quá trình nghiên cứu tôi đã cụ thể bằng những biện pháp sau: a. Biện pháp dạy nghĩa của từ cho học sinh lớp 5. - Các biện pháp giải nghĩa từ. - Các biện pháp tìm hiểu ý nghĩa của một số từ ngữ có giá trị nghệ thuật trong văn bản tập đọc. b. Biện pháp dạy các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa. Dạy nghĩa của từ cho học sinh lớp 5 Để giải nghĩa từ, trước hết giáo viên phải hiểu nghĩa từ và biết giải nghĩa phù hợp với mục đích dạy học, phù hợp với đối tượng học sinh. Đối với học sinh lớp 5 việc giải nghĩa từ không thể giống với học sinh lớp 1-2. Mặt khác hoạt động giải nghĩa từ nói chung cũng sẽ có điểm khác với việc giải nghĩa từ ngữ được dùng có tính nghệ thuật. Theo định hướng vừa nêu, tôi cố gắng tìm ra các biện pháp giải nghĩa từ 9 Ví dụ: Tôi hướng dẫn HS giải nghĩa từ: “Tư tưởng”: - Chọn được các từ gọi tên các nét nghĩa khái quát: suy nghĩ hoặc ý nghĩ ( tập trung tư tưởng). - Xác định rõ phạm trù nghĩa của các từ cần giải nghĩa: quan điểm và ý nghĩa chung của người đối với hiện thực khách quan (tư tưởng tiến bộ, tư tưởng phong kiến...) - Chọn từ công cụ để mở đầu cho nét nghĩa “sự”. Vậy, “tư tưởng” là sự suy nghĩ hoặc ý nghĩ ( tập trung tư tưởng), quan điểm và ý nghĩa chung của người đối với hiện thực khách quan (tư tưởng tiến bộ, tư tưởng phong kiến...) * Danh từ chỉ sự vật cụ thể. Tên gọi các sự vật tồn tại trong thực tế khách quan có rất nhiều nhưng có thể quy về các phạm trù sau: - Từ chỉ đồ vật, từ chỉ người và con vật, từ chỉ cây cối, chỉ các hiện tượng tự nhiên... Vì thế nét nghĩa khái quát mở đầu cho cách giải nghĩa bằng định nghĩa. Khi dạy bài Cửa sông (TV5- T2 - Tr 75), tôi đã hướng dẫn HS giải nghĩa từ “Tôm rảo” : một loại tôm (nghĩa khái quát) sống ở vùng nước lợ, thân nhỏ và dài. Với các từ chỉ đồ vật, dụng cụ, đồ dùng hoặc phương tiện sản xuất, sau nét nghĩa phạm trù là nét nghĩa hình dáng, kích thước, cấu tạo và cuối cùng là nét nghĩa chức năng. Ví dụ: + (cái) Bay (TV5- T1- Tr 148): đồ vật (nét nghĩa phạm trù), dụng cụ của thợ nề, gồm một miếng thép mỏng hình lá lắp vào cán (nét nghĩa hình dáng, kích thước, cấu tạo) , dùng để xây, trát, láng ( nét nghĩa chức năng). Khi giải nghĩa các từ bàn, ghế, sập, các em sẽ miêu tả cấu tạo các đồ vật này na ná như nhau, nhưng nhất thiết các em phải nói được bàn dùng để kê viết hoặc đặt đồ đạc, ghế dùng để ngồi, sập dùng để nằm. Các đồ vật này khác nhau về chức năng. 11 + Trình (TV5- T2 – Tr84): hoạt động, đưa ra để người trên xem xét và giải quyết. Đối với các động từ chỉ ý nghĩa quá trình, sau nét nghĩa phạm trù cần nêu được nét nghĩa chỉ diễn biến hoặc kết quả của quá trình biến đổi. Ví dụ: + Hóa thân: quá trình biến đi và hiện ra lại thành một người hoặc một vật cụ thể khác nào đó (hóa thân vào nhân vật). Riêng đối với các động từ chỉ trạng thái, việc lựa chọn từ ngữ để giải nghĩa cần chú ý sao cho các đặc điểm trạng thái của đối tượng được miêu tả rõ nét, nhưng không lẫn với cách giải nghĩa các tính từ. Đặc biệt là các động từ chỉ trạng thái tâm lí, tình cảm của con người. Khi giải nghĩa các động từ chỉ trạng thái, nêu trạng thái của đối tượng trong một tình trạng cụ thể như trạng thái tâm lí: xao xuyến, bồi hồi, băn khoăn, bối rối. Hoặc trạng thái vật lí của sự vật: nứt, vỡ, mẻ, sứt... cũng có thể là các trạng thái, tình trạng xã hội: náo loạn, nháo nhác, hỗn loạn, xôn xao. Còn khi giải nghĩa các tính từ chỉ tính chất tâm lí, đặc điểm của người cần nêu rõ nét nghĩa thường biểu thị các đặc điểm của đối tượng và kèm theo thang độ đánh giá. Ví dụ: + Ác: tính chất gây hại, đau khổ, tai họa cho người khác. c. Nhóm từ thuộc loại tính từ Tính từ thường được chia làm hai loại: - Tính từ không mức độ: Để thể hiện được mức độ đặc điểm, tính chất mà chúng biểu thị, những tính từ này có thể kết hợp với các từ: rất, quá, lắm... Ví dụ: trắng, vàng, xanh, đỏ, tròn... . - Tính từ có mức độ: các tính từ này đã hàm chứa ý nghĩa mức độ nên chúng không kết hợp được với các từ rất, quá, lắm ... Vì vậy khi dạy các em giải nghĩa các từ thuộc từ loại tính từ, nét nghĩa phạm trù cần nêu trước hết chính là nét nghĩa tính chất, đặc điểm. Các nét nghĩa cần trình bày theo lối miêu tả. 13
File đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_de_day_nghia_cua_tu_va_cac_lop_tu_co_q.doc