Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp nâng cao hiệu quả dạy học kiểu bài từ đồng âm, từ nhiều nghĩa cho học sinh Lớp 5
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp nâng cao hiệu quả dạy học kiểu bài từ đồng âm, từ nhiều nghĩa cho học sinh Lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp nâng cao hiệu quả dạy học kiểu bài từ đồng âm, từ nhiều nghĩa cho học sinh Lớp 5
PHẦN 1: MỞ ĐẦU NHỮNG THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN 1. Tên sáng kiến: “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả dạy học kiểu bài từ đồng âm, từ nhiều nghĩa cho học sinh lớp 5” 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Nội dung mảng kiến thức từ đồng âm, từ nhiều nghĩa trong phân môn Luyện từ và câu ở tiểu học. 3. Tác giả: Họ và tên: Phạm Thị Thu Ngày tháng năm sinh: 06/ 08/ 1989 Chức vụ: Giáo viên trường Tiểu học Lê Ninh 5. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Tên đơn vị: Trường Tiểu học Lê Ninh Địa chỉ: Xã Lê Ninh, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Điện thoại: 03203 823181 6. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu: Trường Tiểu học Lê Ninh Địa chỉ: Xã Lê Ninh, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Điện thoại: 03203 823181 7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: Ban giám hiệu, các đồng chí cán bộ giáo viên, cán bộ thư viện quan tâm giúp đỡ, tạo điều kiện đầy đủ về phương tiện, đồ dùng dạy học; đảm bảo có đủ thời gian để nghiên cứu và tiến hành dạy thử nghiệm. 8. Thời gian áp dụng thử sáng kiến lần đầu: Năm học 2015 – 2016 1 PHẦN 2: MÔ TẢ SÁNG KIẾN 1. Nội dung dạy học từ đồng âm và từ nhiều nghĩa cho học sinh lớp 5 1.1. Nội dung dạy học từ đồng âm Ngay từ lớp 1- lớp đầu tiên của cấp Tiểu học, học sinh đã được biết thông qua việc học phần “Học vần”. Đó là, các em đã được đọc những âm mà có cách đọc cách phát âm giống nhau. Cụ thể: 1. / g / có thể viết: gh khi đi với i, e, ê g khi đi với các nguyên âm còn lại 2. / i / có thể viết: y; i. Tuy nhiên, đây chỉ là một phần không đầy đủ của từ đồng âm. Sở dĩ nói như thế vì các âm nêu trên chỉ có cách đọc là giống nhau còn khi viết thì khác nhau. Ngoài phân môn “Tập đọc - Học vần” thì các phân môn khác của Tiếng Việt lớp 1 chưa sử dụng các kiến thức của từ đồng âm. Lớp 2, 3, 4, các phân môn đã sử dụng các kiến thức của từ đồng âm nhưng chỉ dừng lại ở vật đưa ra trong văn bản chứ không giải thích sự giống nhau hay khác nhau giữa các từ. Ví dụ: Ai ai cũng được tuỳ tài lập công Voi vận tải trên lưng quân bị Vào trận sao cho khoẻ như voi Công đồn, Gấu phải kịp thời. (Sư Tử xuất quân, Tiếng Việt 2, tập 2, tr47) Riêng lớp 5, kiến thức của từ đồng âm được dạy bằng bài một cách cụ thể. Đó là đưa ra khái niệm về từ đồng âm và sử dụng từ đồng âm để chơi chữ. Sau khi đưa ra khái niệm về từ đồng âm “Từ đồng âm là những từ giống nhau về âm nhưng khác hẳn nhau về nghĩa” Tiếng Việt 5, tập 1, Tr.51 thì đã đưa ra những bài tập để củng cố khái niệm. 1.2. Nội dung dạy học từ nhiều nghĩa Bắt đầu từ lớp 2, 3 học sinh đã được làm quen với những kiến thức đơn giản nhất về từ nhiều nghĩa. Những bài được sử dụng kiến thức của từ nhiều nghĩa chủ yếu ở các bài thuộc phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu. Các bài sử dụng kiến thức này được biên soạn kết hợp với các mảng kiến thức khác chứ không lí giải một cách rõ ràng như một bài lý thuyết luyện từ và câu. Đến lớp 5, học sinh sẽ được học bài lí thuyết riêng về từ nhiều nghĩa. Trong bài Từ nhiều nghĩa này, học sinh sẽ được học khái niệm cụ thể về từ nhiều nghĩa: “Từ nhiều nghĩa là từ có một nghĩa gốc và một hay một số nghĩa chuyển. Các nghĩa của từ nhiều nghĩa bao giờ cũng có mối liên hệ với nhau”. (Tiếng Việt 5, tập 1, tr.67). Sách giáo khoa đã đưa ra khái niệm về từ nhiều nghĩa và dành hai tiết để luyện tập về từ nhiều nghĩa. * Nhận xét chung Nội dung kiến thức về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa trong sách giáo khoa Tiếng Việt tương đối đơn giản, cơ bản là phù hợp với đặc điểm nhận thức của học sinh tiếu học. Lí thuyết về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa chỉ được dạy ở lớp 5 và học sinh có thể rút ra khái niệm một cách cụ thể sau ví dụ đưa ra. Sách giáo khoa cũng đưa ra khái niệm trong phần Ghi nhớ. Học sinh có thể tiếp thu khái niệm về từ 3 (Tiếng Việt 5, tập 1, tr.82) + Đặt câu để phân biệt từ Ví dụ : Đặt câu để phân biệt các từ đồng âm - bàn - cờ - nước Mẫu: Nhà nhà treo cờ mừng ngày Quốc khánh. Cờ là một môn thể thao được nhiều người yêu thích. (Tiếng Việt 5, tập 1, tr.52) * Mỗi bài lí thuyết Luyện từ và câu có cấu trúc chặt chẽ tạo điều kiện củng cố cho học sinh kiến thức. Mỗi bài lí thuyết Luyện từ và câu thường có cấu trúc gồm 3 phần rõ ràng: I. Nhận xét Phần này, sách giáo khoa đưa ra các yêu cầu bằng các bài tập để học sinh phân tích ngữ liệu để từ đó tìm ra dấu hiệu nội dung bài học. (Đây được gọi là thao tác khái quát phần Ghi nhớ). Ví dụ: 1. Đọc các câu sau đây: a) Ông ngồi câu cá. b) Đoạn văn này có 5 câu. 2. Dòng nào dưới đây nêu đúng nghĩa của mỗi từ câu ở bài tập 1? - Bắt cá, tôm .. bằng móc sắt nhỏ (thường có mồi) buộc ở đầu một sợi dây. - Đơn vị của lời nói diễn đạt một ý trọn vẹn, trên văn bản được mở đầu bằng một chữ cái viết hoa và kết thúc bằng một dấu ngắt câu. (Tiếng Việt 5, tập 1, tr.51) II. Ghi nhớ Đó chính là những nội dung lí thuyết cơ bản mà học sinh vừa rút ra ở phần Nhận xét. Nội dung Ghi nhớ được trình bày trong phần đóng khung in màu. Ví dụ: Từ nhiều nghĩa là từ có một nghĩa gốc và một hay một số nghĩa chuyển. Các nghĩa của từ nhiều nghĩa bao giờ cũng có mối liên hệ với nhau. (Tiếng Việt 5, tập 1, tr.67) III. Luyện tập Bao gồm các bài tập thuộc hai dạng chủ yếu sau: + Bài tập nhận diện (thường là các bài tập phần đầu phần luyện tập) với các yêu cầu như: tìm, xác định, chỉ ra, gạch chân Ví dụ: Trong những câu nào, các từ mắt, chân, đầu mang nghĩa gốc và trong những câu nào chúng mang nghĩa chuyển? a) Mắt: - Đôi mắt của bé mở to. - Qua na mở mắt. b) Chân: - Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân. - Bé đau chân. c) Đầu: - Khi viết em đừng ngoẹo đầu. - Nước suối đầu nguồn rất trong. 5 Bài tập nhận xét yêu cầu: Đọc các câu và chỉ ra dòng nào nêu đúng nghĩa của mỗi từ câu ở bài tập 1. 1. Đọc các câu sau đây. a) ¤ng ngồi câu cá b) Đoạn văn này có 5 câu. 2. Dòng nào dưới đây nêu đúng nghĩa của mỗi từ câu ở bài tập 1? - Bắt cá, tôm .... bằng móc sắt nhỏ (thường có mồi) buộc ở đầu một sợi dây. - Đơn vị của lời nói diễn đạt một ý trọn vẹn, trên văn bản được mở đầu bằng một chữ cái viết hoa và kết thúc bằng một dấu ngắt câu. Trước khi học bài Từ đồng âm, ở một số tiết Luyện từ và câu ở các lớp 2, 3, 4 học sinh đã được làm quen với dạng bài “nối từ với nghĩa tương ứng”. Vì thế học sinh có thể sử dụng những hiểu biết của mình để tìm nghĩa đúng đối với mỗi từ câu. Để giúp học sinh tìm hiểu bài, phần ngữ liệu đã chỉ ra 2 từ câu và cho nghĩa của 2 từ câu đó. Học sinh thực hiện yêu cầu chính là đi tìm nghĩa của hai từ giống nhau hoàn toàn về hình thức, ngữ âm và cách đọc. Hầu hết, học sinh đã tìm được nghĩa tương ứng chính xác. Tuy nhiên, khi giáo viên cho nhận xét về hai từ câu thì một số học sinh nêu: Từ câu có hai nét nghĩa khác nhau. Học sinh đã đồng nhất 2 từ câu chỉ là một từ câu mà có hai nét nghĩa. Trước hết cần khẳng định hai từ câu đã cho trong bài là hai từ khác nhau, song học sinh nghĩ đây là một từ. Về mặt kiến thức từ ngữ, do chưa nắm vững được lí thuyết và do đặc điểm lứa tuổi, học sinh tiểu học rất dễ bị các dấu hiệu bên ngoài chi phối dẫn đến nhầm lẫn. Phần lớn các em đều nhìn hai từ giống hệt nhau về hình thức ngữ âm, cách đọc, cách viết nên tưởng rằng hai từ trên là một từ. Thực chất đây là hai từ. * Khi học sinh lấy ví dụ: sau khi đã rút ra được khái niệm từ đồng âm một em đã lấy ví dụ như sau: Hai từ đồng âm là: bàn trong cái bàn bàn trong bàn phím Thực ra, nếu đi tìm nghĩa của 2 từ bàn ta sẽ thấy chúng có mối liên hệ với nhau về nghĩa. bàn trong cái bàn là danh từ chỉ đồ vật có chân, có mặt, dùng để đi kèm với ghế làm đồ nội thất. bàn trong bàn phím là bộ phận tập hợp các phím trong một số loại đàn hoặc máy tính. Như vậy, dù hai từ bàn nghĩa khác nhau nhưng nó vẫn có liên quan đến nhau vật để cái gì đó nên thực chất hai từ bàn là một từ. Mặc dù đã cung cấp những kiến thức cơ bản, cần thiết theo quy định về từ đồng âm, nhưng học sinh dễ bị nhầm lẫn bởi vốn từ của học sinh tiểu học còn hạn chế nên học sinh dễ bị lẫn sang loại từ khác mà học sinh chưa được học. Khi đi vào làm bài tập thực hành luyện tập, chúng tôi nhận thấy học sinh còn yếu trong việc phân biệt nghĩa của các từ đồng âm. Do vậy, học sinh tìm từ đồng âm một cách máy móc mà chưa thực sự hiểu được bản chất của chúng thế nào. ➢ Tiết Luyện tập về từ nhiều nghĩa (Tiếng Việt 5, tập 1, tr.82) 7 a) Ruồi đậu mâm xôi đậu. Kiến bò đĩa thịt bò. b) Một nghề cho chín còn hơn chín nghề. c) Con cua tám cẳng hai càng Bò đi bò lại hỏi bò mấy chân ? d) Thằng mù nhìn thằng mù nhìn, thằng mù nhìn không nhìn thằng mù. Từ đồng âm là a) ... b) ... c) ... d) ... 3. Đặt câu để phân biệt các từ đồng âm sau: a) giá ... b) đường ... Phiếu điều tra số 2 1. Tích (v) vào đáp án em cho là đúng nhất. Từ nhiều nghĩa là: a) Từ có nhiều nghĩa. b) Từ có âm giống nhau c) Từ có một nghĩa gốc và một nghĩa chuyển. d) Từ có một nghĩa gốc và một hay một số nghĩa chuyển. Các nghĩa của từ nhiều nghĩa bao giờ cũng có mối liên hệ với nhau. 2. Trong các câu sau, từ nào mang nghĩa gốc, từ nào mang nghĩa chuyển ? a) tay - Bình yêu nhất là hai bàn tay mẹ. - Cây dừa xanh toả nhiều tàu Dang tay đón gió gật đầu gọi trăng. b) lưng - Em bé ngủ trên lưng mẹ. - Lưng núi thì to. c) xuân - Mùa xuân là tết trồng cây Làm cho đất nước, càng ngày càng xuân. 3. Tìm hai từ nhiều nghĩa và đặt câu phân biệt chúng. Mẫu: Chín. - Cơm đã chín rồi. - Bị điểm kém, An ngượng chín cả người. ... Phiếu điều tra số 3 1. Điền Đ vào ô trống sau câu có từ đồng âm, điền N vào ô trống sau câu có từ nhiều nghĩa. a. Nước ta vào mùa mưa, nước thường dâng cao b. Bạn Trường Sơn đi nước cờ có tính chất quyết định đã mang vinh quang về cho nước nhà. 9 Tuy đã được cung cấp kiến thức cơ bản về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa nhưng học sinh khó có thể phân biệt được từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Bởi lẽ: - Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa đều có đặc điểm về hình thức giống nhau, đọc giống nhau, viết giống nhau và cùng khác nhau về nghĩa (Đây là lý do cơ bản nhất). - Trong chương trình Tiếng Viêt 5, chưa có dạng bài tập phối hợp cả hai kiến thức về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa để học sinh rèn kỹ năng phân biệt. - Học sinh chưa phân biệt được nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa. Như vậy, từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là hai mảng kiến thức quan trọng trong Luyện từ và câu ở lớp 5 trong Chương trình Tiếng Việt. Học sinh rất dễ nhầm lẫn hai kiểu từ này. Giáo viên nên giúp học sinh tìm hiểu bản chất của từ đồng âm và từ nhiều nghĩa và nắm được bản chất của hai kiểu từ này để có thể phân biệt được một cách dễ dàng. 3. Một số giải pháp để nâng cao chất lượng dạy học kiểu bài từ đồng âm – từ nhiều nghĩa 3.1. Nâng cao năng lực hiểu biết về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa cho giáo viên Mỗi giáo viên Tiểu học nhất thiết phải trang bị cho bản thân những kiến thức từ ngữ cơ bản về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, những kiến thức phổ thông về từ ngữ tiếng Việt như: kiến thức về từ loại, cụm từ, sự chuyển nghĩa của từ ngữ Tiếng Việt. Có nắm vững những kiến thức đó, giáo viên mới có thể chủ động trong tiết dạy, phản ứng linh hoạt với những tình huống phát sinh trong quá trình dạy học, những hiện tượng ngôn ngữ không nằm trong bài học... Và có nắm vững những vấn đề đó, giáo viên mới có thể nghiên cứu, tìm tòi và xây dựng nên những giải pháp cụ thể, thiết thực giúp học sinh viết đúng yêu cầu về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa nhất là khi phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa. Vì vậy, yêu cầu giáo viên phải phân biệt được rõ ràng đâu là từ đồng âm, đâu là từ nhiều nghĩa. Giáo viên phải nắm chắc kiến thức để phân biệt hai kiểu từ này: - Từ đồng âm là nhiều từ, có hình thức giống nhau, cách đọc giống nhau, viết giống nhau nhưng khác hẳn nhau về nghĩa. - Từ nhiều nghĩa chỉ là một từ, trong đó có một nghĩa gốc và một hay một số nghĩa chuyển. Vì thế giáo viên tuyệt đối không nên nói “hai từ đó là hai từ nhiều nghĩa” mà chỉ nên nói “hai từ đó là từ đồng âm”. - Nói về vấn đề đồng âm, nhiều nghĩa, sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 đã chỉ ra: “Từ đồng âm là những từ giống nhau về âm nhưng khác hẳn nhau về nghĩa”. Ví dụ: câu trong: - Ông ngôi câu cá. - Đoạn văn này có 5 câu. “Từ nhiều nghĩa là từ có một nghĩa gốc và một hay một số nghĩa chuyển. Các nghĩa của từ nhiều nghĩa bao giờ cũng có mối liên hệ với nhau”. Ví dụ: Mũi (người hoặc động vật): Bộ phận nhô lên ở giữa mặt người hoặc động vật, dùng để ngửi. 11
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_giai_phap_nang_cao_hieu_qua_day.doc