Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp hướng dẫn học sinh Lớp 5 giải toán chuyển động đều
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp hướng dẫn học sinh Lớp 5 giải toán chuyển động đều", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp hướng dẫn học sinh Lớp 5 giải toán chuyển động đều
I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Tiểu học là bậc học nền tảng trong nền giáo dục quốc dân. Người ta ví bậc Tiểu học như những “viên gạch” đầu tiên đặt nền móng cho “ngôi nhà tri thức”, “móng" có chắc thì “nhà” mới vững. Việc hình thành ở học sinh những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đức, trí, thể, mĩ và các kĩ năng cơ bản khác để học tiếp các bậc học trên hoặc để đi sâu vào cuộc sống lao động là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong quá trình dạy và học. Các môn học trong chương trình Tiểu học có vai trò hết sức quan trọng, nó cung cấp những kiến thức, kĩ năng phù hợp với học sinh. Trong đó môn Toán có nhiều ứng dụng trong đời sống, rất cần thiết để học tốt các môn học khác ở Tiểu học và chuẩn bị cho việc học tốt môn Toán ở bậc Trung học. Môn Toán lớp 5 gồm năm chương, trong đó tuyến kiến về “ Chuyển động đều” nằm ở chương Bốn, được dạy học ở học kì II. Nói chung toán chuyển động đều là kiến thức mới và tương đối khó với học sinh, đặc biệt là học sinh dân tộc thiểu số, học sinh khó khăn về học tập. Nó không chỉ dừng lại ở một số dạng bài đơn giản mà còn có những dạng bài phức tạp cần sự suy luận. Do đó, với những em tiếp thu bài nhanh sẽ học tốt hơn, ngược lại những em có khả năng tư duy chậm hơn thì rất ngại học dẫn đến tình trạng học không tốt môn Toán cũng như các môn học khác. Qua nhiều năm dạy học, tôi thấy học sinh ở trường chủ yếu là người dân tộc thiểu số, khả năng tiếp thu bài còn chậm, nhất là toán chuyển động đều, điều này làm ảnh hưởng tới chất lượng học môn Toán cũng như các môn học khác, nó còn là trở ngại khi các em bước vào bậc học trên. Để khắc phục được những hạn chế đó, giáo viên phải tìm ra phương pháp, hình thức dạy học phù hợp với nội dung và đối tượng học sinh. Vì vậy tôi chọn đề tài “Một số biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 5 giải toán chuyển động đều” 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài - 1 - II. PHẦN NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận Mục tiêu dạy học môn toán tiểu học nhằm giúp học sinh có những kiến thức cơ bản ban đầu về số học, các số tự nhiên, phân số, số thập phân; các đại lượng thông dụng; một số yếu tố hình học và thống kê đơn giản. Hình thành các kỹ năng thực hành tính, đo lường, giải bài toán có nhiều ứng dụng thiết thực trong đời sống. Góp phần bước đầu phát triển năng lực tư duy, khả năng suy luận hợp lí và diễn đạt chúng, cách phát hiện và cách giải quyết những vấn đề đơn giản, gần gũi trong cuộc sống; kích thích trí tưởng tượng; gây hứng thú học tập toán; góp phần hình thành bước đầu phương pháp tự học và làm việc có kế hoạch khoa học, chủ động, linh hoạt, sáng tạo. Nội dung về toán chuyển động đều giữ vị trí quan trọng trong môn Toán lớp 5. Nó giúp học sinh có năng lực nhận biết các sự vật, hiện tượng một cách nhanh chóng, lô-gíc và khoa học. Đồng thời toán chuyển động đều còn gắn bó mật thiết với các kiến thức khác như số học, đại số, ...tạo thành môn Toán có cấu trúc hoàn chỉnh và phù hợp với học sinh tiểu học. Với toán chuyển động đều, ta thấy đây là loại toán khó, rất phức tạp, đa dạng và có rất nhiều kiến thức áp dụng vào thực tế cuộc sống. Việc hình thành, rèn luyện, củng cố các kỹ năng giải toán chuyển động đều chiếm thời lượng rất ít nên các em không thể tránh khỏi những khó khăn, sai lầm khi giải loại toán này. Vì thế người giáo viên đóng vai trò quan trọng - là cầu nối học sinh với những kiến thức mới của bài học, giúp học sinh học tốt, nắm vững kiến thức và biết cách giải các bài toán chuyển động đều. Qua đó cũng nhằm bồi dưỡng nâng cao khả năng tư duy và óc sáng tạo của học sinh. 2. Thực trạng vấn đề 2.1 Thuận lợi - khó khăn * Thuận lợi - 3 - Giáo viên đã nắm vững tuyến kiến thức về toán chuyển động đều, lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp; biết cách dạy khơi dậy sự sáng tạo, sự tự học của học sinh. Được sự giúp đỡ của giáo viên trong khối cũng như toàn trường, thường xuyên trao đổi kinh nghiệm trong giảng dạy. * Mặt yếu Học sinh của trường chủ yếu là người dân tộc thiểu, khả năng tiếp thu cũng có phần hạn chế, một số nội dung của bài học tương đối khó so với nhận thức của các em. Bên cạnh đó, một số giáo viên cũng còn những hạn chế nhất định về năng lực dạy học. 2.4 Các nguyên nhân - các yếu tố tác động Nhà trường tạo cơ sở vật chất đảm bảo cho quá trình dạy học. Tổ chuyên môn cũng thường xuyên tạo điều kiện để tham gia các buổi tập huấn, chuyên đề nâng cao trình độ chuyên môn. Bản thân là giáo viên giảng dạy lớp 5 nhiều năm nên có kinh nghiệm trong việc lựa chọn các phương pháp, hình thức dạy học phù hợp với đối tượng học sinh. Học sinh chủ yếu là người dân tộc thiểu số, hoàn cảnh gia đình các em còn gặp rất nhiều khó khăn, nhận thức còn nhiều hạn chế. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới việc phối hợp với gia đình trong việc giáo dục các em. 2.5 Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra Trường Tiểu học Y Ngông đóng trên địa bàn khăn của huyện Krông Ana. Tỉ lệ học sinh dân tộc thiểu số chiếm đa số, nhận thức của các em còn hạn chế. Hầu hết gia đình các em thuộc diện có hoàn cảnh khó khăn, các em thường nghỉ học để phụ giúp gia đình lao động. Đi học không chuyên cần dẫn đến các em bị hổng kiến thức các môn học nói chung và môn Toán nói riêng. Hơn nữa, gia đình chưa thật sự quan tâm đến việc học tập của các em, khả năng tư duy của các em còn hạn chế. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến các em gặp khó khăn trong việc tiếp thu bài. - 5 - Tuy nhiên không phải lúc nào học sinh cũng dễ dàng chuyển đổi được đơn vị đo cho phù hợp, lí do là các em đã quen cách đổi số đo thời gian về số tự nhiên hay về số thập phân, do đó các em thường gặp khó khăn trong những bài toán đơn giản. Ví dụ : Một người đi xe máy trong 1 giờ 40 phút với vận tốc 35 km/giờ. Tính quang đường người đi xe máy đã đi. Đối với dạng toán này, học sinh sẽ đổi phút thành giờ ( 40 phút = ....giờ) bằng cách lấy 40: 60(kết quả là phép chia có dư). Vì quen cách đổi về số tự nhiên hoặc số thập phân mà quên không đổi về phân số nên các em đã mắc phải một số sai lầm không đáng có. Trong trường hợp này, giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện theo gợi ý sau : Chuyển phép chia 40 : 60 thành = . Đổi 1giờ 40 phút ra giờ. Nếu phép chia có dư thì kết quả để ở dạng phân số. Với cách hướng dẫn, gợi ý, học sinh sẽ giải được bài toán như sau : Đổi : 1 giờ 40 phút = 1 giờ = giờ Quãng đường người đi xe máy đã đi là : 35 x = (km) Đáp số : (km) Với dạng toán này, yêu cầu của bài đặt ra là tìm một trong các đại lượng vận tốc, quãng đường, thời gian. Trong đó có những đại lượng muốn tìm phải dựa vào dữ liệu đã cho. Ví dụ : Một con ngựa chạy đua trên quãng đường 15 km hết 20 phút. Tính vận tốc của con ngựa đó với đơn vị đo là m/phút. Đối với bài tập này, học sinh thường nhầm lẫn là có đủ dữ liệu, chỉ cần thay vào công thức sẽ được kết quả ( vận tốc là 15 : 20 = 0,75m/phút). Các em thường quên mất rằng đơn vị quãng đường đã cho chưa tương ứng với đơn vị vận tốc cần tìm. Với dạng bài này, giáo viên hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán như sau : - 7 - Yêu cầu của bài này là tính quãng đường khi biết vận tốc và thời gian, tuy nhiên học sinh lại nhầm lẫn và không biết cách tính thời gian ô tô đi hết quãng đường. Do đó giáo viên gợi ý, hướng dẫn học sinh như sau : Tìm thời gian ô tô đi hết quãng đường (Lấy thời gian đến nơi trừ đi thời gian bắt đầu xuất phát). Đơn vị thời gian tương ứng với đơn vị vận tốc km/giờ (là giờ ). Qua sự hướng dẫn, học sinh có cách giải bài này như sau : Thời gian ô tô đi hết quãng đường AB là : 12 giờ 15 phút - 7 giờ 30 phút = 4 giờ 45 phút Đổi : 4 giờ 45 phút = 4,75 (giờ) Độ dài quãng đường AB là : 46 x 4,75 = 218,5 (km) Đáp số : 218,5 km Từ bài toán trên, các em sẽ rút ra được cách tính thời gian đối với loại toán này như sau : Thời gian đi = thời gian đến nơi - thời gian đầu xuất phát. Từ đây giáo viên sẽ hướng dẫn giúp học sinh rút ra được một số công thức : Thời gian đi = thời gian đến - thời gian xuất phát - thời gian nghỉ. Thời gian đến nơi = thời gian xuất phát + thời đi + thời gian nghỉ. Thời gian khởi hành = thời gian đến nơi - (thời gian đi + thời gian nghỉ) Ví dụ: Một ô tô đi từ Hà Nội lúc 6 giờ 15 phút và đến Hải phòng lúc 8 giờ 56 phút. Vận tốc của ô tô là 45 km/giờ. Giữa đường ô tô nghỉ 25 phút. Tính quãng đường từ Hà Nội đến Hải phòng. Với bài này, yêu cầu học sinh tính quãng đường khi biết vận tốc, còn muốn tìm thời gian thì phải giải bài toán phụ. Giáo viên hướng dẫn, gợi ý bằng tóm tắt sau : Quãng đường = vận tốc x thời gian đi thực tế = 45 x ? - 9 - + Ô tô đuổi kịp xe máy lúc mấy giờ ?( giờ khởi hành cộng với thời gian ô tô đi để đuổi kịp xe máy) Từ gợi ý, hướng dẫn học sinh giải như sau : Thời gian xe máy đi trước ô tô là : 11 giờ 7 phút - 8giờ 30 phút = 2 giờ 30 phút ( 2,5 giờ) Đến 11giờ 7 phút xe máy đã đi được quãng đường là : 36 x 2,5 = 90 (km) ( Bài toán đưa về loại chuyển động cùng chiều, đuổi nhau) Ô tô xe máy Nơi gặp nhau A 90 km B C Sau mỗi giờ, ô tô gần xe máy là : 54 - 36 = 18 (km) Thời gian ô tô đuổi kịp xe máy là : 90 : 18 = 5 (giờ) Ô tô đuổi kịp xe máy lúc : 11 giờ 7 phút + 5 giờ = 16 giờ 7 phút Đáp số : 16 giờ 7 phút Từ bài toán trên cho thấy, khoảng cách cho trước chính là quãng đường mà xe máy đã đi trước khi ô tô xuất phát. Thời gian để ô tô đuổi kịp xe máy chính là khoảng cách giữa hai xe chia cho hiệu vận tốc. Bài toán đưa về loại chuyển động cùng chiều, đuổi nhau, tìm thời điểm (lúc) gặp nhau. Qua đó ta có công thức cho loại toán này như sau : Thời gian đuổi kịp là : t = s : (v1 - v2 ) với v1 > v2 , s là khoảng cách 2 chuyển động Với loại chuyển động ngược chiều thì thì - 11 - + Vận tốc ngược dòng = vận tốc vật - vận tốc dòng nước. + Vận tốc dòng nước = (vận tốc xuôi dòng - vận tốc ngược dòng) : 2 + Vận tốc vật = (vận tốc xuôi dòng + vận tốc ngược dòng) : 2 + Vận tốc xuôi dòng - vận tốc ngược dòng = vận tốc dòng nước x 2 Như vậy, với loại toán chuyển động đều có từ hai chuyển động là loại toán khó, do đó giáo viên cần hướng dẫn tỉ mỉ, gợi mở để học sinh tìm ra hướng giải, từ đó các em mới có thể nhớ và khác sâu kiến thức hơn. 3.3 Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp Giáo viên phải nắm vững nội dung chương trình, Chuẩn Kiến thức, kỹ năng của môn học và từng bài học cụ thể. Thực hiện tốt dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của người học. Linh hoạt lựa chọn các hình thức giảng dạy sao cho phù hợp với đối tượng học sinh, bảo đảm tất cả học sinh đều có cơ hội tham gia và tiếp thu được nội dung cơ bản của bài học. Giáo viên không ngừng học hỏi, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. 3.4 Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp Các giải pháp, biện pháp được nêu trong đề tài có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, có sự thống nhất và có mục tiêu là hướng học sinh vào quá trình học tập. Giải pháp thứ nhất là tiền đề, là cơ sở giúp giáo viên thực hiện tốt giải pháp thứ hai và giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Giáo viên cần linh hoạt khi thực hiện các giải pháp, biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học và tạo hứng thú trong học tập. 3.5 Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu Thực hiện đề tài này đã mang lại những hiệu quả nhất định như học sinh nắm vững kiến thức về số đo thời gian, biết cách tính quãng đường, vận tốc, thời gian trong chuyển động; vận dụng để giải một số bài toán chuyển động dạng đặc - 13 -
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_huong_dan_hoc_sinh_lo.doc