Sáng kiến kinh nghiệm Làm thế nào để vận dụng và thiết kế trò chơi học tập Tiếng Việt Lớp 5 đạt hiệu quả
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Làm thế nào để vận dụng và thiết kế trò chơi học tập Tiếng Việt Lớp 5 đạt hiệu quả", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Làm thế nào để vận dụng và thiết kế trò chơi học tập Tiếng Việt Lớp 5 đạt hiệu quả
Sáng kiến kinh nghiệm Làm thế nào để vận dụng và thiết kế trò chơi học tập Tiếng Việt Lớp 5 đạt hiệu quả TẦM QUAN TRỌNG: Vui chơi là một hoạt động không thể thiếu được của con người ở mọi lứa tuổi, đặc biệt là ở lứa tuổi tiểu học. Bởi lẽ, nó phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của lứa tuổi này. Vui chơi không những giúp cho các em được rèn luyện thể lực, rèn luyện các giác quan mà nó còn tạo cơ hội cho các em được giao lưu với nhau, được hợp tác với bạn bè, đồng đội trong nhóm, trong to... .thông qua đó, các em sẽ dần được hoàn thiện những kĩ năng giao tiếp. Đó là kĩ năng được đặt ra hàng đầu trong mục tiêu của môn Tiếng Việt bậc Tiểu học nói chung và của môn Tiếng Việt ở lớp 5 nói riêng. Điều đó chứng tỏ: hoạt động vui chơi là hoạt động hỗ trợ cho việc học. TÓM TẮT THỰC TRẠNG: Trong nhiều năm qua, mặc dù đã đổi mới phương pháp dạy học Tiếng Việt nhưng một số giáo viên vẫn còn nặng tâm lý đây là môn học chính nên trong quá trình giảng dạy họ rất chú trọng việc truyền thụ kiến thức với mục đích giúp học sinh học tốt môn này. Việc sử dụng trò chơi học tập đối với một số giáo viên còn là hình thức hoặc có sử dụng trò chơi thì cũng ở mức gượng ép, miễn cưỡng. Mặt khác, còn một số giáo viên khi sử dụng các trò chơi học tập thì chưa chọn lọc kỹ, không có tác dụng thiết thực phục vụ mục tiêu của bài học nên việc tổ chức trò chơi chưa đạt hiệu quả. Thực tế cho thấy, vẫn còn một số đối tượng học sinh thụ động, tự ti, chưa mạnh dạn tham gia vào các hoạt động học tập. hiệu quả”. GIỚI HẠN ĐỀ TÀI : Học sinh lớp 5 trường tiểu học Hứa Tạo năm học 2011-2012 CƠ SỞ LÍ LUẬN: Bài tập Tiếng Việt trong sách giáo khoa lớp 5 bao giờ cũng nhằm hình thành cho học sinh một đơn vị kiến thức hay rèn luyện cho học sinh một kĩ năng sử dụng kiến thức tiếng Việt đã học vào một tình huống cụ thể. Mỗi bài tập thường chỉ đề cập đến một khía cạnh của nội dung bài học từ mức độ thấp đến mức độ cao nhằm rèn luyện các thao tác tư duy cho học sinh. Ví dụ : Tiết Luyện từ và câu bài Luyện tập thay thế từ ngữ để liên kết câu”Sách Tiếng Việt 5, tập 2, trang 86. Bài 1 : Trong đoạn văn sau, người viết đã dùng những từ ngữ nào để chỉ nhân vật Phù Đổng Thiên Vương ( Thánh Gióng) ? Việc dùng nhiều từ ngữ thay thế cho nhau như vậy có tác dụng gì ? Bước đầu bài tập chỉ yêu cầu học sinh nhận biết những từ ngữ chỉ nhân vật Phù Đổng Thiên Vương có trong đoạn văn ( mức độ biết ). Sau đó phải nêu được tác dụng của việc thay thế từ ngữ ( mức độ hiểu ). Như vậy thông qua bài tập 1, học sinh được rèn những kĩ năng tư duy ở mức độ thấp đó là : biết- hiểu. Bài 2 : Hãy thay thế những từ ngữ lặp lại trong hai đoạn văn sau bằng đại từ hoặc từ ngữ đồng nghĩa. Sang bài tập 2, học sinh phải xác định được từ ngữ được lặp lại trong hai đoạn văn và dùng từ ngữ khác để thay thế. Như vậy mức độ yêu cầu của bài tập cao viên còn là hình thức hoặc có sử dụng trò chơi thì cũng ở mức gượng ép, miễn cưỡng. Mặt khác, còn một số giáo viên khi sử dụng các trò chơi học tập thì chưa chọn lọc kỹ, không có tác dụng thiết thực phục vụ mục tiêu của bài học nên việc tổ chức trò chơi chưa đạt hiệu quả. Thực tế cho thấy, vẫn còn một số đối tượng học sinh thụ động, tự ti, chưa mạnh dạn tham gia vào các hoạt động học tập. Trước thực trạng đó, tôi thiết nghĩ, mình cần phải thay đoi một cách thức dạy học mới sao cho học sinh hứng thú, say mê và tích cực chủ động hơn khi học Tiếng Việt. Qua đó, những kĩ năng giao tiếp ở các em sẽ ngày càng hoàn thiện và phát triển. Và việc vận dụng trò chơi học tập trong môn Tiếng Việt là hết sức cần thiết. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU: Học sinh tiểu học luôn thích thú những điều mới lạ. Vì vậy, để mỗi giờ học Tiếng Việt hấp dẫn, thu hút học sinh, đòi hỏi người giáo viên phải luôn luôn sáng tạo trong việc vận dụng những trò chơi học tập cũ đồng thời tìm tòi, nghiên cứu để thiết kế những trò chơi học tập mới. VẬN DỤNG TRÒ CHƠI HỌC TẬP VÀO GIẢNG DẠY TIẾNG VIỆT Qua nhiều năm giảng dạy ở tiểu học đặc biệt là lớp 5, tôi đã sử dụng rất nhiều trò chơi học tập trong dạy Tiếng Việt như : trò chơi ô chữ, bingô, đôminô... .Ngoài ra, trong năm học này, được tiếp cận với lớp tập huấn phương pháp tích cực của bộ môn Tiếng Việt, đã cung cấp cho tôi thêm nhiều ý tưởng vận dụng các trò chơi học tập vào giảng dạy nhằm phát triển các kĩ năng sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp của học sinh. Khi vận dụng cần lưu ý một số điểm sau : chuyện hay nội dung bài đọc.. ) -I- Phương tiện phục vụ cho việc đánh giá ( Ví dụ như : Bảng đúng / sai, mặt khóc/ mặt cười ...) -I- Phương tiện vật chất là phần thưởng cho đội thắng cuộc như các phiếu khen tặng, một bông hoa điểm thưởng.Học sinh sẽ rất thích thú khi biết được chơi thắng cuộc sẽ được thưởng. Nó là động lực để các em tham gia trò chơi nhiệt tình, năng động hơn. - Mục tiêu của trò chơi học tập là cung cấp kiến thức và rèn kĩ năng do đó: -I- Sau mỗi trò chơi, giáo viên cần gợi ý để học sinh rút ra các nội dung, kĩ năng mà các em đã học được qua trò chơi. -I- Việc đánh giá tổng kết trò chơi có thể giao cho học sinh tự nhận xét, đánh giá và tổng kết để phát huy tối đa khả năng của các em, giúp học sinh rèn luyện óc suy luận, kĩ năng tư duy, kĩ năng giao tiếp từ đó các em sẽ trở nên tự tin, m ạnh dạn hơn. - Ngoài ra, khi tổ chức các trò chơi học tập cho học sinh, giáo viên cũng cần lưu ý đến điều kiện cơ sở vật chất của trường, thời gian khi chơi và sức khỏe của học sinh. Cách vận dụng: Có rất nhiều cách xếp loại trò chơi học tập : • Theo mục đích sử dụng : -I- Trò chơi dẫn dắt học sinh tiếp cận tri thức. -I- Trò chơi rèn kĩ năng thực hành và củng cố kiến thức. -I- Trò chơi nhằm ôn tập tổng hợp và rèn óc tư duy. một số việc sau đây : • Chuẩn bị các đồ dùng phục vụ để tổ chức trò chơi. Đối với trò chơi này, giáo viên cần phải chuẩn bị : 1 bộ thẻ ghi các cặp từ có nghĩa giống nhau hoặc gần giống nhau. ( có thể lấy từ ngữ liệu cần phân tích trong phần nhận xét của bài học ở sách giáo khoa. ) • Chuẩn bị hệ thống câu hỏi dẫn dắt sau khi kết thúc trò chơi để học sinh rút ra được thế nào là từ đồng nghĩa ,đồng nghĩa hoàn toàn và đồng nghĩa không hoàn toàn. • Xác định rõ các bước tiến hành trò chơi. - Tiến hành : • Bộ thẻ từ được đính lên bảng lớp ( đặt úp thẻ xuống theo 2 dãy). • Giáo viên chia lớp thành 2 đội chơi . Mỗi đội cử 1 bạn đại diện lật thẻ và oan tù tì để giành quyền lật trước. • Đại diện mỗi đội lần lượt lật một thẻ từ ở mỗi dãy lên và trình bày với lớp đây có phải là một cặp thẻ phù hợp hay không. Nếu hai thẻ từ tạo thành một cặp thẻ từ có nghĩa giống nhau hoặc gần giống nhau thì người chơi được giữ cặp thẻ. Nếu hai thẻ không phù hợp, người chơi đặt úp hai thẻ này vào lại chỗ cũ. • Trò chơi kết thúc khi tất cả các cặp thẻ đồng nghĩa được xác định. Đội thắng cuộc sẽ là đội có nhiều cặp thẻ đồng nghĩa nhất. - Lưu ý : • Giáo viên cần phải cân nhắc thật kĩ số lượng thẻ từ để thời gian chơi không trò chơi này , tốt nhất là một nhóm chơi chỉ nên có từ 4- 6 em và phải đủ trình độ. • Chuẩn bị bảng trò chơi Ô hình rắn kích thước A0, các bộ thẻ hình, xúc xắc, các vòng nhựa tròn hoặc ngựa đủ cho số nhóm đã phân. - Tiến hành : • Các nhóm học sinh nhận một bảng trò chơi Ô, bộ ảnh chụp, các vòng nhựa màu khác nhau đủ cho các em trong nhóm và một xúc xắc. • Các nhóm đặt úp bộ ảnh chụp vào vị trí nơi đặt bộ thẻ hình trên bảng trò chơi Ô. • Tất cả các em trong nhóm cùng đặt các chấm nhựa tròn của mình vào vị trí bắt đầu. Trong nhóm, lần lượt từng em đổ xúc xắc. • Tùy theo số trên mặt xúc xắc mà em này sẽ di chuyển vòng nhựa của mình theo số các vòng tròn nhỏ trên bảng trò chơi Ô sau cho phù hợp. Nếu vòng nhựa của em vào vòng tròn màu đỏ lớn, em sẽ lấy một ảnh theo thứ tự từ trên xuống của bộ ảnh. • Em này xem ảnh và đặt 2-3 câu về người hoặc cảnh trong ảnh. Cả nhóm cùng xem ảnh và nhận xét câu miêu tả của bạn. - Tiến hành : • Giáo viên nêu tên bài thơ sẽ đọc truyền điện, nêu cách chơi: hai nhóm bắt thăm (hoặc oan tù tì) để giành quyền đọc trước. • Đại diện nhóm đọc trước (nhóm A) đọc câu đầu tiên của bài thơ rồi chỉ định thật nhanh (truyền điện), một bạn bất kì của nhóm kia (nhóm B), bạn được chỉ định đọc tiếp câu thơ thứ 2 của bài. • Nếu đọc thuộc được chỉ định một bạn của nhóm A đọc tiếp câu thơ thứ 3, cứ như vậy cho đến hết bài. - Lưu ý : • Trường hợp học sinh được “truyền điện” chưa thuộc, các bạn nhóm đối diện sẽ hô từ 1 đến 5. Nếu không đọc được phải đứng yên tại chỗ (bị điện giật). Lúc đó học sinh A1 chỉ tiếp học sinh B2... Nhóm nào có nhiều người phải đứng (bị điện giật) là nhóm thua cuộc. • Ta có thể vận dụng trò chơi này để kiểm tra kiến thức ở nhiều phân môn khác nhau như : Tập đọc, chính tả, luyện từ và câu. Vận dụng như thế nào là tùy vào từng bài, tùy vào mục đích và nội dung cần kiểm tra, củng cố. Mỗi một trò chơi đều có thể vận dụng với mục đích sử dụng khác nhau. Chẳng hạn như trò chơi Tập trung” được vận dụng để dẫn dắt học sinh hình thành kiến thức mới như đã giới thiệu ở phần trên nhưng đồng thời cũng có thể vận dụng để rèn kĩ năng thực hành, củng cố kiến thức hoặc ôn tập tổng hợp kiến thức. Điều ấy còn phụ thuộc vào mục tiêu của từng bài tập. Tóm lại, viêc vận dụng trò chơi học tập trong môn Tiếng Việt là rất cần thiết.Thông qua trò chơi, các kĩ năng đọc, viết, nghe, nói được rèn luyện, đồng rèn của giáo viên. Đồng thời thông qua đó rèn những kĩ năng cần thiết cho học sinh. Một nội dung trò chơi có thể được thể hiện thành các hình thức tổ chức trò chơi khác nhau. Ví dụ : Nội dung trò chơi xếp các từ trong tập hợp sau thành hai nhóm : một nhóm gồm các từ chỉ người, cơ quan, tổ chức thực hiện công việc bảo vệ trật tự- an ninh, một nhóm gồm các từ chỉ hoạt động bảo vệ trật tự, an ninh hoặc yêu cầu của việc bảo vệ trật tự, an ninh. Ta có thể có các hình thức tổ chức chơi như sau : > Trò chơi chung sức. Giáo viên phát cho mỗi nhóm một tờ giấy. Theo lệnh của giáo viên, từng nhóm bàn bạc với nhau để thực hiện yêu cầu của trò chơi. Khi nhóm đã thống nhất thì ghi kết quả vào giấy. Ghi xong, dán tờ giấy của nhóm lên bảng lớp. Giáo viên sẽ tính điểm các nhóm theo hai chuẩn : Chuẩn chính xác và chuẩn nhanh nhẹn. > Trò chơi thi tài. Đơn vị chơi bây giờ là cá nhân. Từng em nhận yêu cầu của trò chơi và ráng sức tự mình giải quyết yêu cầu của trò chơi. Giáo viên sẽ tìm điểm thi đua cho cá nhân. > Hai người ba chân. Đây là biến tướng của trò chơi tiếp sức. Cứ 2 em trong nhóm phải dùng dây buộc chân trái của mình với chân phải của một bạn khác. Hai bạn sẽ chỉ hoạt động được ba chân. Từng cặp hai em phải đi bằng ba chân lên bảng để thực hiện thao tác xếp từ theo nhóm. • Hệ thống câu hỏi khai thác 2 từ đồng âm ‘’ bán nước”; ‘’ đầu hàng” để học sinh nhận biết cách sử dụng từ đồng âm để chơi chữ. - Tiến hành: • Giáo viên treo một vế câu đối ‘’ bán chè bán xôi không bán nước”lên bảng và nêu yêu cầu. • Chia nhóm học sinh thảo luận viết vế đối phù hợp. • Nhóm nào viết xong câu đối nhanh và đúng theo yêu cầu là nhóm thắng cuộc. - Lưu ý : • Từng từ trong vế đối phải đảm bảo đúng từ loại với từ trong vế ra. Ví dụ : ‘’ bán” là động từ thì từ đối với nó cũng phải là một động từ; ‘’ chè”là danh từ thì từ đối cũng phải là danh từ. • Từng từ trong vế đối phải có nghĩa hoặc trái ngược, hoặc bổ sung cho từ trong vế ra. Ví dụ : ‘ ’bán” thì đối với nó phải là ‘ ’ mua’ • Học sinh có thể tạo vế đối khác, miễn là đảm bảo đối được ý mà dùng được từ đồng âm. Giáo viên dùng ngữ liệu đó để khai thác bài. • Giáo viên cần quy định thời gian chơi để đảm bảo thời gian thực hành các bài tập trong SGK. • Số mảnh vải hoặc giấy tùy thuộc vào số nhóm mà giáo viên chia. b. Các trò chơi rèn kĩ năng thực hành và củng cố kiến thức : > Trò chơi ‘’Chọn ô số ‘’ Trò chơi được vận dụng vào phân môn Tập làm văn, bài : ‘’Luyện tập tả người, Tiếng Việt 5, tập 1, trang 132.
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_lam_the_nao_de_van_dung_va_thiet_ke_tr.docx