Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm giáo dục học sinh cá biệt Lớp 5

doc 17 trang thanh 15/12/2023 2080
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm giáo dục học sinh cá biệt Lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm giáo dục học sinh cá biệt Lớp 5

Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm giáo dục học sinh cá biệt Lớp 5
 MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT LỚP 5
 I. PHẦN MỞ ĐẦU
 1. Lí do chọn đề tài
 Trên khắp đất nước Việt Nam, mỗi dân tộc đều gắn liền với một bản sắc 
văn hoá và chính bản sắc văn hoá này đã tạo nên một nét riêng biệt của mỗi 
vùng, miền. Đắk Lắk là một tỉnh miền núi, trong đó đồng bào dân tộc Ê Đê 
chiếm 30% dân số của tỉnh với nhiều nét đẹp văn hóa vẫn được bảo tồn và phát 
huy như Văn hóa cồng chiêng, ngày 25 - 11 - 2005 đã được tổ chức UNESCO 
công nhận “Không gian Văn hóa cồng chiêng là kiệt tác truyền khẩu và phi vật 
thể của nhân loại”; Văn hóa lễ hội: Lễ cúng bến nước, lễ cúng vào nhà mới, lễ 
cúng trưởng thành, lễ cúng sức khỏe, lễ cầu mưa, Đồng bào Êđê rất tự hào về 
các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mình. 
 Bên cạnh những giá trị văn hóa tốt đẹp đó, ở vùng sâu, vùng xa trình độ 
dân trí còn thấp, kinh tế chậm phát triển các hiện tượng mê tín dị đoan, các tập 
quán hủ tục vẫn còn tồn tại như tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết. Tình 
trang này không chỉ vi phạm pháp luật mà còn gây ra hậu quả rất lớn đối với cá 
nhân, gia đình và xã hội. Tảo hôn thì vợ, chồng chưa phát triển đầy đủ về cả sinh 
lý và tâm lý, chưa đủ khả năng để chăm sóc con phát triển một cách bình 
thường, khỏe mạnh, toàn diện, do đó những đứa con đó lớn lên sẽ rất khó khăn 
về nhiều mặt như sức khỏe, học hành... Tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống sẽ 
sinh ra những đứa con kém phát triển về trí tuệ, khả năng học tập kém, không có 
khả năng tiếp thu như những đứa trẻ bình thường.
 Dân tộc Ê đê cũng như một số dân tộc ít người khác thường định cư ở 
miền núi, chịu nhiều bất lợi về kinh tế, xã hội, tỉ lệ hộ nghèo và mù chữ cao. 
Trường Tiểu học Ea Bông nằm trên địa bàn Buôn Riăng, Buôn Knul và thôn 
10/3 thuộc xã Ea Bông, đây là một xã có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn của 
huyện Krông Ana. Trong đó có hai buôn là Buôn Riăng và Buôn Knul có dân 
tộc Ê đê sinh sống. Nhân dân ở đây chủ yếu là làm nông nghiệp và làm thuê. 
Mức thu nhập bình quân của hộ gia đình thấp. Đời sống kinh tế người dân không 
đảm bảo nên việc chăm lo học hành cho con cái gặp rất nhiều khó khăn.
 Một số đứa trẻ được sinh ra ở đây cũng có nhiều điểm đặc biệt: Cơ thể 
phát triển chậm so với lứa tuổi, kéo theo tâm sinh lí của các em cũng chậm phát 
triển. Các em không được nhanh nhẹn, hoạt bát về ngôn ngữ cũng như các hoạt 
động. Đối tượng thứ nhất là học sinh thuộc gia đình có điều kiện kinh tế khó 
khăn: Những em này hay nghỉ học để phụ giúp bố mẹ, nên việc tiếp thu bài trên 
lớp bị gián đoạn. Dẫn đến các em tiếp thu bài chậm, kết quả học tập giảm sút. 
Các em thấy tự ti khi đến lớp, các em không muốn học và thường gây mất trật tự 
trong các giờ học. Đối tượng thứ hai là học sinh thiếu sự quan tâm, giáo dục của 
bố mẹ. Bố hoặc mẹ mất hay bố mẹ đi làm ăn xa, các em phải ở nhà với ông bà, 
không có người đôn đốc việc học hành nên các em thiếu sự định hướng trong 
học tập và cuộc sống. Trong khi đó, độ tuổi của các em đang bước vào giai đoạn 
 1 - Chính sách phát triển giáo dục vùng dân tộc thiểu số.
 b) Phương pháp trải nghiệm thực tế.
 - Đi tìm hiểu thực tế các hoàn cảnh gia đình học sinh trên địa bàn.
 - Dự giờ, trao đổi ý kiến với đồng nghiệp, lãnh đạo về các kĩ năng sư 
phạm, các phương pháp giáo dục đối với học sinh lớp 5.
 - Tổng kết rút kinh nghiệm trong quá trình dạy học, chủ nhiệm lớp.
 c) Phương pháp điều tra, thống kê, so sánh.
 d) Phương pháp quan sát hoạt động thực tiễn. 
 II. PHẦN NỘI DUNG
 1. Cơ sở lí luận
 Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến chính sách 
dân tộc. Trong Hiến pháp, cũng như các văn kiện của các kỳ Đại hội Đảng đều 
khẳng định chính sách đối với đồng bào các dân tộc thiểu số, trong đó, chính 
sách về giáo dục và đào tạo là một chính sách quan trọng để nâng cao dân trí và 
đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các dân tộc thiểu số trong công cuộc 
xây dựng và phát triển đất nước.
 Luật Giáo dục 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009), Luật Phổ cập giáo dục tiểu 
học năm 1991, Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 đều có các 
quy định để đảm bảo quyền được giáo dục của đồng bào các dân tộc thiểu số. 
Quy định việc tạo điều kiện cho người dân tộc thiểu số được học tiếng nói, chữ 
viết của dân tộc mình bên cạnh việc sử dụng tiếng Việt. Tạo điều kiện cho học 
sinh dân tộc thiểu số được hưởng chính sách ưu đãi. 
 Sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào dân tộc thiểu số 
không chỉ thể hiện qua các Nghị định, chương trình, dự án, mà còn bằng chiến 
lược cơ bản lâu dài, như chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020 đã được Thủ 
tướng Chính phủ phê duyệt năm 2013, nhằm tạo động lực phát triển mạnh mẽ 
vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
 Như vậy, vai trò của người giáo viên được đặt lên hàng đầu trong chiến 
lược giáo dục đồng bào dân tộc thiểu số trong những năm tới. Ngoài việc thực 
hiện nhiệm vụ của một giáo viên trong điều 34 theo Thông tư 41/2010/TT-
BGDĐT ngày 30/12/2010 về điều lệ trường Tiểu học thì giáo viên đồng thời 
phải thực hiện tốt công tác chủ nhiệm theo Thông tư 28/2009/TT-BGDĐT ngày 
 3 trong việc giáo dục đạo đức, hành vi, lối sống. Một số học sinh chưa theo kịp 
yêu cầu chuẩn kiến thức kĩ năng; chưa có động cơ học tập và do cha mẹ học 
sinh nhận thức hạn chế nên không nhắc nhở giúp đỡ các em học tập. Bên cạnh 
đó một số em thường nghỉ học vào dịp mùa màng theo cha mẹ đi nương rẫy 
hoặc ở nhà trông em để cha mẹ đi làm nên việc tiếp thu bài trên lớp gặp rất 
nhiều khó khăn. 
 Từ thực tế nắm bắt được tình hình của học sinh, tôi phân loại học sinh 
thành 3 nhóm: nhóm 1 là nhóm học sinh có ý thức học tập và rèn luyện tốt, gia 
đình quan tâm đến việc học của các em; nhóm 2 là nhóm học sinh hay nghỉ học, 
thường làm mất trật tự trong các giờ học, không có động lực học tập; nhóm 3 là 
nhóm các em thiếu sự quan tâm của bố mẹ vì lí do đặc biêt. Nhóm 2 và nhóm 3 
có chung đặc điểm là học lực yếu, tiếp thu bài chậm, đọc viết yếu và không tập 
trung trong giờ học, các em chưa tích cực tham gia các hoạt động học tập và rèn 
luyện. Đây là 2 nhóm thuộc phạm vi đề tài nghiên cứu để tìm ra các giải pháp 
giúp đỡ các em hoàn thành nhiệm vụ học tập và có kĩ năng sống tạo nền tảng cơ 
sở cho cấp học trên.
 Từ tình hình trên, tôi hiểu và ý thức được nhiệm vụ của một giáo viên 
chủ nhiệm lớp, phải tìm ra giải pháp tốt, phù hợp để các em ham thích đến lớp, 
có động cơ học tập tốt, tích cực tham gia các hoạt động giáo dục và rèn luyện, 
có vốn kĩ năng sống nhằm định hướng phát triển đúng đắn về mặt xã hội và tinh 
thần.
 Nguyên nhân là do trong quá trình giảng dạy và chủ nhiệm lớp, một số 
giáo viên chưa quan tâm đến điều kiện gia đình của từng em và phân loại các 
đối tượng học sinh trong lớp, còn lúng túng trong việc lập kế hoạch chủ nhiệm. 
Thiếu mạnh dạn đổi mới phương pháp, hình thức dạy học để phát huy tính tích 
cực chủ động của các em. Việc tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp như văn 
nghệ, hoạt động Đội không thường xuyên nên chưa phát huy tính hiệu quả của 
nó trong việc nâng cao chất lượng học tập, giáo dục. Một số học sinh chưa biết 
xác định động cơ học tập đúng đắn nên chưa chăm chỉ học tập và rèn luyện. 
Điều kiện học tập như: dụng cụ học tập, góc học tập ở nhà còn thiếu thốn. Một 
số cha mẹ chưa thực sự quan tâm đến việc học của các em, còn khoán trắng cho 
nhà trường, chưa tạo điều kiện cho các em học tập. 
 3. Nội dung và hình thức của giải pháp
 a) Mục tiêu của giải pháp
 Nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đối với học sinh dân tộc thiểu số lớp 
5 cá biệt, giúp các em có động cơ học tập, có phẩm chất đạo đức tốt, có kĩ năng 
sống vận dụng trong sinh hoạt hằng ngày, giúp các em trở thành con người phát 
triển toàn diện về đức, trí, thể, mĩ. 
 b) Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp.
 5 * Biện pháp 2 : Xây dựng mối quan hệ thầy – trò.
 “Xây dựng lớp học thân thiện” là tạo ra sự gần gũi giữa giáo viên với học 
sinh. Vì vậy làm thế nào để mối quan hệ thầy - trò được gắn bó, thân thiện. 
Trước hết, tôi đã thể hiện sự thân thiện cởi mở với các em nhưng vẫn thể hiện 
sự nghiêm khắc. Ngay từ đầu, tôi yêu cầu các em phải cố gắng làm cho đúng. 
Nếu chưa đúng thì phải làm lại cho đúng mới thôi. Đúng là đúng từ việc làm, 
nghiêm là nghiêm trong việc làm chứ không phải ở thái độ khắt khe, gay gắt. 
Mối quan hệ cơ bản nhất của tôi và các em là quan hệ hợp tác làm việc: giáo 
viên giao việc - học trò làm; giáo viên hướng dẫn - học trò thực hiện. Khi các 
em làm bài, viết bài tôi đến gần từng em để giúp đỡ kịp thời. Em nào làm bài 
chưa đúng, chưa viết được, tôi yêu cầu em đó phải làm lại chứ không ghi lời 
nhận xét phê bình các em. Tôi giúp đỡ, hướng dẫn học sinh làm lại ngay tại lớp. 
Nếu em nào không làm được, tôi chữa bài và yêu cầu em chép lại. Tôi luôn 
nghĩ rằng đối với học sinh tiểu học việc chữa bài đánh giá nhận xét không phải 
để bắt lỗi, để la mắng học sinh mà để ghi lời nhận xét đánh giá nhằm phát hiện 
những chỗ chưa đúng của học sinh, giúp các em làm lại cho đúng, cho hoàn 
thiện hơn. Với cách nói đúng, làm đúng trong học tập, các em trở thành những 
con người trung thực, không gian dối. 
 Ở lớp 5, các em đã biết nhận xét, đánh giá nêu ra ý kiến riêng của mình. 
Bởi vậy mỗi lời nói, cử chỉ, việc làm, hành vi của giáo viên đều tác động đến 
học sinh vì đây là giai đoạn bước đầu các em phát triển tâm sinh lí tuổi dậy thì, 
các em rất nhạy cảm. Khi lên lớp tôi luôn nhắc các em biết giữ vệ sinh chung, 
vệ sinh cá nhân, thái độ ứng xử với mọi người,... Mỗi khi có học sinh mắc 
khuyết điểm, tôi luôn tìm hiểu cặn kẽ nguyên nhân để có biện pháp giúp đỡ các 
em sửa chữa chứ không nóng vội phê bình các em trước lớp hoặc trước tập thể 
cha mẹ học sinh và không bao giờ có những lời nói, cử chỉ xúc phạm các em vì 
ở tuổi này các em đã biết tự ái và xấu hổ.
 Giờ học nào cũng vậy, tôi luôn cố tìm ra những ưu điểm nhỏ nhất để 
khen ngợi động viên các em, khích lệ và biểu dương các em kịp thời. Chỉ bằng 
những tràng pháo tay cũng đủ để các em vui phấn khởi chứ không nhất thiết 
phải là vật chất. Ca ngợi những ưu điểm của các em nhiều hơn để các em thấy 
tự tin, phấn khởi, hứng thú để lần sau các em tiếp tục phát huy. Nhưng trong 
khi khen, tôi cũng không quên chỉ ra những thiếu sót để các em khắc phục và 
ngày càng hoàn thiện hơn. 
 Ví dụ em H Ninh là học sinh khả năng ghi nhớ chậm, rụt rè, đọc yếu. 
Nên trong mỗi giờ học, tôi dành thời gian gọi em phát biểu dù chỉ là một câu trả 
lời nhỏ, đọc một câu văn ngắn tôi vẫn khen em đã có cố gắng, nếu em cố gắng 
hơn thì em sẽ đọc bài tốt hơn. Cứ thế mỗi giờ học, mỗi buổi học mỗi lần được 
khen em đều nở nụ cười phấn khởi. Từ đó em học tập tiến bộ và mạnh dạn hẳn 
 7 Để xây dựng mối quan hệ bạn bè thân thiết, đoàn kết, gắn bó, sẵn sàng 
giúp đỡ nhau trong học tập, tôi luôn tạo ra các hoạt động, các vấn đề đòi hỏi sự 
đoàn kết của nhiều học sinh. 
 Ví dụ: Trong tuần đầu, tôi sắp xếp các em ngồi gần học sinh đọc bài tốt 
để kèm bạn luyện đọc. Trong tuần sau, tôi sắp xếp các em ngồi gần học sinh 
khác để cùng chia sẽ việc giúp đỡ bạn mình. Vì từ đầu năm tôi phát động phong 
trào “ Đôi bạn cùng tiến” bằng cách phân công em học khá giúp đỡ em học yếu 
để những học sinh giỏi cùng tôi giúp đỡ bạn học tập để theo kịp chương trình. 
 Trong tiết học Toán, tôi chia nhóm theo dãy bàn thì tiết Tập đọc tôi chia 
nhóm chẵn lẻ,... Tiết học này, các em chung nhóm với bạn này, nhưng tiết sau 
các em lại chung nhóm với bạn khác. Mỗi lần chia nhóm các em lại được giao 
lưu học tập với các bạn khác. Với cách làm đó tạo cho các em tính mạnh dạn, 
tinh thần đoàn kết, các em sẽ phấn khởi hứng thú học tập hơn. Với tính hiếu 
động, với tâm lí muốn được điểm tốt, được khen về khoe với ông bà, cha mẹ 
nên mỗi lần thảo luận nhóm tôi đều đánh giá khen thưởng bằng các hình thức 
khác nhau, thế là em nào cũng tích cực tham gia. Những em khá, giỏi thì thể 
hiện hết khả năng của mình. Còn những em học yếu, chưa tích cực sợ mình 
không được khen cũng cố gắng tham gia thảo luận dù mình chỉ đưa ra được câu 
trả lời chưa đầy đủ. Cứ như vậy, dần dần việc hợp tác của học sinh trong lớp đã 
được cải thiện. 
 Em Y Toan và Y Yoai là hai học sinh hay nghịch ngợm trong lớp, do tiếp 
thu bài chậm nên học lực không theo kịp lớp. Trong một số tiết em thường trêu 
chọc bạn và tự tiện đổi chỗ đổi, gây mất trật tự trong giờ học, khi nhắc em 
thường tỏ thái độ lầm lì. Biết được tính cách này của em, tôi thường gọi em làm 
bài tập dạng đơn giản; gọi em đọc phần bài học; cho em phát vở cho các bạn. 
Từ những việc làm nhỏ đó, tôi thấy em đọc bài có tiến bộ rõ rệt, tiếp thu bài 
nhanh hơn so với đầu năm. Em tự giác trong học tập hơn, em đã cảm nhận được 
sự quan tâm của cô và thấy mình cũng có một vị trí quan trọng trong lớp. 
 * Biện pháp 4: Tổ chức các hoạt động tập thể và các trò chơi vui tươi 
lành mạnh
 Như chúng ta đã biết, học sinh lớp 5 là giai đoạn đầu tuổi dậy thì, các em 
gái đã biết ngại ngùng xấu hổ, đã biết phân biệt chỗ ngồi, chỗ đứng giữa nam 
và nữ. Để tạo không khí sôi nổi ngoài các hoạt động học tập, tôi còn tổ chức 
cho các em tham gia các giờ sinh hoạt tập thể, sinh hoạt Đội, hoạt động ngoài 
giờ lên lớp, múa hát chào mừng các ngày lễ lớn. Nội dung hình thức vui chơi 
được tôi soạn phù hợp với lứa tuổi gây sự hứng thú cho các em. Việc tổ chức 
cho các em múa hát và tham gia các trò chơi mà tôi đưa ra đã tạo cho các em có 
một sân chơi bổ ích “học mà chơi, chơi mà học”, kiến thức và kĩ năng ở mỗi em 
sẽ được hình thành và rèn luyện một cách nhẹ nhàng, tự nhiên, không gây căng 
thẳng, gò bó. Ngoài ra, tổ chức sinh hoạt tập thể và vui chơi còn giúp các em 
phát triển và hoàn thiện nhân cách, bồi dưỡng năng khiếu và tài năng sáng tạo. 
 9

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_kinh_nghiem_giao_duc_hoc_sinh_c.doc