Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp duy trì sĩ số học sinh Lớp 5

doc 16 trang thanh 20/12/2023 3120
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp duy trì sĩ số học sinh Lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp duy trì sĩ số học sinh Lớp 5

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp duy trì sĩ số học sinh Lớp 5
 Một số biện pháp duy trì sĩ số học sinh lớp 5
 MỤC LỤC
TT Mục Trang
 1 I. Phần mở đầu 2
 2 1. Lí do chọn đề tài 2
 3 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài 2
 4 3. Đối tượng nghiên cứu 2
 5 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu 2
 6 5. Phương pháp nghiên cứu 3
 7 II. Phần nội dung 3
 8 1 .Cơ sở lí luận 3
 9 2. Thực trạng 4
 10 3. Giải pháp, biện pháp 5
 11 a. Mục tiêu của giải pháp 5
 12 b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp 6
 13 c. Mối quan hệ giữa các giải pháp 12
 14 d. Kết quả khảo nghiệm 12
 15 III. Kết luận, kiến nghị 13
 16 1. Kết luận 13
 17 Kiến nghị 14
Trường TH Lê Hồng Phong 1 GV: Nguyễn Thị Kim Anh Một số biện pháp duy trì sĩ số học sinh lớp 5
 b) Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
 - Phương pháp điều tra.
 - Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia.
 - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục.
 - Phương pháp khảo nghiệm, thử nghiệm.
 c) Phương pháp thống kê toán học:
 II. PHẦN NỘI DUNG
 1. Cơ sở lí luận
 Theo Thông tư số 41/2010/TT-BGDĐT ngày 30/10/2010 và Thông tư số 
50/2012/TT-BGDĐT ngày 18 tháng 12 năm 2012 của Bộ Giáo dục và Đào tạo Sửa 
đổi, bổ sung Điều 40 của Thông tư số 41/2010/TT-BGDĐT ngày 30 tháng 12 năm 
2010 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Điều lệ Trường Tiểu học quy 
định độ tuổi của học sinh tiểu học từ sáu đến mười bốn tuổi (tính theo năm). Đây là 
lứa tuổi các chưa làm chủ được bản thân, chưa nhận thức được điều gì là đúng và 
điều gì là sai, hay bắt chước và chịu tác động của mọi việc xảy ra xung quanh mình. 
Khả năng tiếp thu kiến thức nhanh hay chậm của từng nhóm đối tượng học sinh 
cũng khác nhau. Ở số đông các em, ý thức học tập chưa cao, chưa hiểu rõ mục đích 
của việc học. Các em đi học phần nào là do sự bắt buộc của gia đình, chỉ một phần 
nhỏ là ham thích đi học (vì đi học được mặc quần áo đẹp, được gặp gỡ và vui chơi 
cùng các bạn, được cô giáo khen,). Do đó, ý thức tự giác học tập của các em chưa 
có nên thiếu sự cần cù, sự cố gắng vượt qua khó khăn để học tập, dễ sinh ra lười 
biếng, ham chơi và dẫn đến học yếu, chán học và rồi bỏ học
 Có một hiện tượng khá phổ biến hiện nay là nhiều trường đưa ra rất nhiều 
phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phát huy tính tích cực, sáng tạo của 
học sinh mà quên đi việc bồi lấp lỗ hổng kiến thức cho học sinh yếu, học sinh có 
hoàn cảnh khó khăn. Các em không có đủ thời gian cho học tập, điều kiện thiếu 
thốn; tâm lý không ổn định, thiếu tự tin trong học tập; ngôn ngữ tiếng Việt bị hạn 
chế; thiếu sự quan tâm, chăm sóc của gia đình và sự hỗ trợ của cộng đồng. Vì vậy 
nên người giáo viên cần nắm bắt tốt các công văn chỉ đạo của các cấp (CV 
9890/BGDĐT-GDTH về việc hướng dẫn nội dung, phương pháp giáo dục cho 
học sinh có hoàn cảnh khó khăn) để có hướng điều chỉnh nội dung, phương pháp 
và hình thức dạy học sao cho phù hợp với học sinh của lớp.
 Những đặc điểm nêu trên nếu không được quan tâm giáo dục kịp thời có 
thể ảnh hưởng tiêu cực đến tương lai của trẻ, nhưng nó cũng chính là điều kiện 
tốt để giáo viên tạo sự hứng thú cho các em. Nếu hàng ngày, khi đến trường các 
em được thầy cô ân cần chỉ bảo. Trong học tập, các em được hoạt động nhóm, 
được làm thí nghiệm, chơi các trò chơi học tập, thì các em sẽ ham học hơn và 
thích đi học hơn. Và trong mỗi giai đoạn phát triển khác nhau của học sinh chúng 
ta cũng không thể áp dụng một cách cứng nhắc, dập khuôn trong giai đoạn đó mà 
còn tuỳ thuộc vào tố chất, năng lực, thể lực của học sinh đó cũng như những tác 
động của gia đình và xã hội của mỗi một cá nhân học sinh mà ta có những cách 
Trường TH Lê Hồng Phong 3 GV: Nguyễn Thị Kim Anh Một số biện pháp duy trì sĩ số học sinh lớp 5
của công và ý thức kỉ luật khi tham gia hoạt động tập thể, đặc biệt là tính tự giác, 
tích cực học tập, hạn chế. 
 Với những thực trạng trên, để duy trì sĩ số học sinh ở lớp chủ nhiệm, đặc biệt 
là học sinh ở khối lớp 5có nhiều học sinh dân tộc thểu số là một nhiệm vụ bắt buộc 
đối với cá nhân tôi.
 Việc duy trì sĩ số học sinh nó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, không bắt 
buộc theo một khuôn mẫu nào cả nên tôi vừa học, vừa làm, vừa rút kinh nghiệm. 
 3. Nội dung và hình thức của giải pháp:
 a. Mục tiêu của giải pháp:
 Mục tiêu chủ yếu và quan trọng nhất của giải pháp, biện pháp duy trì sĩ số 
học sinh là tạo cho các em niềm vui khi đến trường. Từ đó, các em có cơ hội tiếp 
thu bài một cách đầy đủ nhất, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện 
về mặt kiến thức, năng lực và phẩm chất của học sinh trong quả trình dạy học 
một cách chủ động, dễ dàng và chắc chắn. 
 Việc phổ biến và đề ra nội quy ngay từ đầu năm học giúp các em định 
hướng được nhiệm vụ của bản thân trong năm học. 
 Quan tâm, giúp đỡ học sinh khắc phục khó khăn trong học tập, thoát khỏi 
sự tự ti, mặc cảm và học sinh có hoàn cảnh khó khăn thì sẽ các em vững tin vào 
bản thân hơn. Qua đó thêm yêu trường lớp, thầy cô và bạn bè.
 Phối hợp chặt chẽ với các giáo viên bộ môn, giáo viên dạy thay và Tổng 
phụ trách Đội giúp giáo viên nắm bắt kịp thời, chính xác tình hình học tập, rèn 
luyện và cả những thay đổi bất thường mỗi học sinh trong lớp. Từ đó có hướng 
điều chỉnh phù hợp trong dạy học và giáo dục.
 Tận dụng tối đa sự tác động của môi trường xã hội tạo mối liên hệ gắn kết 
giữa nhà trường – gia đình – cộng đồng để giáo dục học sinh phát triển một cách 
toàn iện nhất.
 Tổ chức tốt tiết sinh hoạt tập thể - sinh hoạt lớp, tạo môi trường giáo dục 
tốt giúp các em hứng khởi hơn trong học tập, gắn bó học sinh với học sinh; học 
sinh với giáo viên; học sinh với trường lớp,
 b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
 Thứ Nhất: Phổ biến nội quy ngay từ đầu năm tới học sinh - phụ 
huynh
 Tổ chức học nội quy lớp ngay tuần đầu của năm học. Quy định rõ: học sinh 
phải đi học đều và đúng giờ, nghỉ học phải có lí do và được cha mẹ xin phép. 
 Tổ chức họp phụ huynh học sinh đầu năm, thông báo cho phụ huynh biết 
về quy định và nhờ phụ huynh hàng ngày theo dõi, nhắc nhở. 
 Học sinh đến trường đều tự mình đánh dấu vào Bảng theo dõi “Ngày em đến 
lớp”.
Trường TH Lê Hồng Phong 5 GV: Nguyễn Thị Kim Anh Một số biện pháp duy trì sĩ số học sinh lớp 5
và lại làm quen với mô hình trường học mới (VNEN), bởi nơi em theo học trước 
đó là chương trình hiện hành, lực học của em cũng không được tốt lắm. Tôi đã 
luôn quan tâm đến em, hướng dẫn em hòa nhập với mô hình học mới, bạn 
mới,. Tôi hỏi han em giống như một người mẹ, người chị, người bạn. Tiếp xúc 
nhiều với cô, với các bạn em dần quen và trở nên mạnh dạn hơn. Có những giờ 
học Tiến trở nên xuất chúng khiến nhiều bạn ngạc nhiên với câu trả lời khá hoàn 
hảo và sáng tạo của mình. Những lúc đó tôi đã tuyên dương khích lệ tinh thần của 
em. Tiến cảm thấy rất phấn khởi và thêm yêu trường lớp, thầy cô giáo và các bạn 
mới. Từ đó đến nay, Tiến đã mạnh dạn và tự tin hơn nhiều, em luôn đi học đều và 
đúng giờ. Có khi bị ốm, bố mẹ điện thoại xin phép cô giáo rồi nhưng Tiến cũng 
chỉ nghỉ một buổi đi khám bệnh, buổi chiều vẫn lên lớp học. 
 Thứ tư: Quan tâm đến học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn: 
 Rà soát, nắm bắt những học sinh có hoàn cảnh nghèo, gia cảnh khó khăn 
đăng kí cho các em được nhận dụng cụ, sách vở, quần áo do Nhà trường và Liên 
đội và các tổ chức từ thiện hỗ trợ ngay từ đầu năm. 
 Mua sẵn bút chì, thước, ruột bút kim, để trong cặp. Khi các em cần thì 
đã có ngay để dùng.
 Kêu gọi các học sinh trong lớp dành tặng bạn một số quần áo cũ và tranh 
thủ sự hỗ trợ từ một số giáo viên, phụ huynh có khả năng để trang bị thêm những 
dụng cụ còn lại cho những em có hoàn cảnh khó khăn để các em được yên tâm 
đến trường, không phải mặc cảm vì nhà nghèo, thiếu thốn. (Ví dụ: Trong lớp, có 
em Trần Văn Tài theo bố đi câu mực ở biển Nghệ An, mẹ mải mê chơi cờ bạc 
nên Tài đã đến lớp tập trung muộn hơn các bạn. Khi đến lớp, không có một loại 
sách vở, dụng cụ học tập nào. Tôi đã liên lạc và gặp mặt mẹ Tài để trao đổi tìm 
cách giúp em. Mẹ Tài sẽ phải mua sắm vở và đồ dùng học tập cho em còn tôi thì 
xin với Nhà trường tạo điều kiện cho em mượn một bộ sách hướng dẫn học. 
Được sự giúp đỡ của Ban Giám hiệu và sự phối hợp của phụ huynh, Tài đã có 
đầy đủ các loại sách vở và dụng cụ học tập cần thiết khi đến lớp). 
 Thứ năm: Phối hợp chặt chẽ với các giáo viên bộ môn, giáo viên dạy 
thay và Tổng phụ trách Đội:
 Trường Tiểu học lê Hồng Phong chúng tôi thực hiện dạy 9 buổi/tuần. Giáo 
viên làm công tác chủ nhiệm thực hiện dạy 23 tiết/tuần. Như vậy, với những số 
tiết còn lại là giáo viên chuyên và giáo viên dạy thay. Vì vậy nếu không có sự 
phối hợp chặt chẽ giữa các giáo viên chuyên, giáo viên dạy thay với Tổng phụ 
trách Đội và giáo viên chủ nhiệm để duy trì tốt sĩ số thì việc học sinh nghỉ học, 
bỏ tiết là điều khó tránh khỏi. 
 Đầu năm học 2015-2016, lớp 5E tôi dạy có mấy trường hợp (Nguyễn Văn 
Đức, Y Khuyến Byã, Y Huy Byã, Y Sa muel Niê,) cứ đến tiết chuyên (Tiếng 
Anh, Tin học, Đạo đức, Kĩ Thuật,) là nghỉ học, bỏ tiết hoặc tùy tiện đổi chỗ 
trong lớp. Những buổi sau đến lớp, nghe học sinh trong lớp và giáo viên bộ môn 
phản ánh lại tôi thấy khá bức xúc. Tôi liền trao đổi với các giáo viên chuyên cùng 
phối hợp để chấn chỉnh kịp thời những điều đó. Tiếp đến, tôi gắn trực tiếp sơ đồ 
Trường TH Lê Hồng Phong 7 GV: Nguyễn Thị Kim Anh Một số biện pháp duy trì sĩ số học sinh lớp 5
mất của việc nghỉ học, Những buổi học trên lớp, tôi luôn quan tâm đến Đức một 
cách tự nhiên, hài hòa. Giao cho em phụ trách vị trí Phó ban Thư viện của lớp. Khi 
đảm nhận trọng trách này, em sẽ có cơ hội tiếp cận nhiều hơn với các tài liệu có 
trong thư viện của lớp mà không phải qua khâu trung gian. Các bạn khác muốn 
mượn tài liệu phải thông qua em, như vậy em thấy được mình cũng có vai trò quan 
trọng đối với tập thể mà cố gắng. Càng ngày, em càng muốn chứng tỏ khả năng 
của mình với các bạn nên không còn nghĩ đến chuyện nghỉ học nữa. Cũng có 
những buổi em nghỉ học nhưng đều có lí do chính đáng do người lớn xin phép. 
Những buổi học sau lên lớp, em rất tích cực học hỏi bạn về bài đã học hôm trước 
để theo cho kịp các bạn. Việc đưa được Đức đến lớp đều là thành công lớn nhất 
trong ngần ấy năm dạy học của tôi. Ngạc nhiên hơn nữa là cuối năm học, Đức đã 
hoàn thành khá tốt các bài kiểm tra, đặc biệt là môn Tiếng Việt đạt 8 điểm. Các 
khoản đóng góp tôi cũng xin với nhà trường miễn hết cho em. Các khoản của lớp, 
bản thân tôi hỗ trợ cho em phần nào còn nữa là sự hỗ trợ của cả tập thể lớp. 
 Mặt khác, đối với những em có mặc cảm do có sự khác biệt về thành phần 
dân tộc (Kinh, Ê-đê ) hoặc do chưa thích nghi với môi trường như: chuyển 
trường, lưu ban thì lúc này vai trò của giáo viên rất quan trọng. Giáo viên sẽ lồng 
ghép giáo dục khi dạy một số bài Địa lí lớp 4, bài Dân cư nước ta (Địa lí lớp 5) . 
Giáo viên cũng có thể kể câu chuyện “Kinh và Ba na đều là anh em” để hướng 
tới sự đoàn kết là một. Bên cạnh đó, những cử chỉ, giọng nói của giáo viên tạo 
nên sự gần gũi giữa hai mối quan hệ là rất cần thiết. Một cái xoa đầu, một lời hỏi 
thăm là bản thân giáo viên đã tạo cho học sinh một sự tin tưởng, dễ gần. Lòng 
cảm mến của học sinh đối với giáo viên, giúp các em xóa đi những mặc cảm, tự ti 
để hòa nhập với tập thể tốt hơn và ý định chán nản, bỏ học, nghỉ học sẽ dễ dàng 
xóa đi trong đầu óc non nớt của các em. 
 Có các em: Y Sa Muel Niê, Y Huy Byã, H Nang Êban, những ngày đầu 
nhận lớp, thấy các em có vẻ rụt rè. Tôi âm thầm theo dõi và tìm hiểu nguyên nhân 
thì được biết hoàn cảnh của các em ấy khá phức tạp. Y Huy có bố mẹ đã li dị, em 
ấy ở với bà ngoại và dì ruột đang học THCS. Y Sa Muel, bố mẹ đi làm ở Thành 
phố Hồ Chí Minh, em ở với bà ngoại. H Nang gia đình thuộc hộ nghèo, em còn 
thường xuyên bị chảy mồ hôi ở tay và chân, Học lực của 3 em đều ở mức yếu 
(qua bài kiểm tra khảo sát đầu năm). Thỉnh thoảng các em ấy lại nghỉ học mà 
không có lí do. Tôi đã trò chuyện riêng với từng em, hỏi han về mọi chuyện và 
động viên các em. Bên cạnh đó tôi cũng gặp trực tiếp dì của Y Huy, mẹ của H 
Nang cùng tìm biện pháp giúp các em tiến bộ. Riêng với Y Sa muel, tôi đến nhà 
nhưng đều không gặp được bà của em (gia đình không ai dùng điện thoại). Tôi đã 
nhờ đến Hội phụ huynh của lớp, nhờ phụ huynh của những học sinh gần nhà giúp 
đỡ. Trên lớp, tôi phân các học sinh khá giỏi giúp đỡ các em. Cho các em tham gia 
vào đội quản Sao, hướng dẫn các học sinh lớp 1, 2 xếp hàng tập thể dục đầu giờ 
(có sự hướng dẫn của GVCN). Cả ba thấy mình có uy với các em nên khá mạnh 
dạn khi làm nhiệm vụ được giao. Các em hồ hởi nói về những em nhỏ mà mình 
phụ trách. Những ngày sau đó, các em rất nhớ nhiệm vụ của mình. Biết được vai 
trò của mình như thế nào nên các em đều rất cố gắng. Khi có cơ hội là tôi đưa ra 
những lời khen với các em. Các em cảm thấy được quan tâm, tin tưởng nên việc 
Trường TH Lê Hồng Phong 9 GV: Nguyễn Thị Kim Anh

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_duy_tri_si_so_hoc_sin.doc