SKKN Một số kinh nghiệm áp dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào môn Khoa học Lớp 5
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số kinh nghiệm áp dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào môn Khoa học Lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số kinh nghiệm áp dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào môn Khoa học Lớp 5
MỘT VÀI KINH NGHIỆM ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP, “BÀN TAY NẶN BỘT” VÀO DẠY MÔN KHOA HỌC LỚP 5 I. ĐẶT VẤN ĐỀ: Từ giữa thế kỉ XX đến nay, với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế tri thức, xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa, đòi hỏi giáo dục phải đào tạo lớp người lao động mới: Thông minh, năng động, sáng tạo. Yêu cầu đó buộc giáo dục phải chuyển mục tiêu đào tạo từ “biết gì?” sang “có năng lực giải quyết vấn đề gì?”. Để đạt mục tiêu đó thì việc dạy học phải chuyển từ trang bị tri thức sang bồi dưỡng năng lực, trong đó đặc biệt quan trọng là năng lực sáng tạo. Theo đó, nhiều phương pháp dạy học tích cực ra đời như: Lipet, nêu vấn đề, grap, ximina, công nghệ giáo dục, bản đồ tư duy.. ..Cuối những năm 90 của thế kỉ trước, một phương pháp dạy học tích cực mới nữa ra đời có tên là phương pháp “Bàn tay nặn bột”. “Bàn tay nặn bột” được hiểu là phương pháp tạo cho học sinh tích cực, chủ động trong học tập. Học sinh phải tự làm các thực nghiệm để tiếp thu các kiến thức khoa học. Các em tiếp cận tri thức khoa học như một quá trình nghiên cứu của chính bản thân. Trong đó vai trò của giáo viên ở phương pháp này không phải là truyền thụ những kiến thức khoa học dưới dạng thuyết trình, trình bày mà là giúp xây dựng kiến thức bằng cách cùng hành động với học sinh. Khoa học lớp 5 là môn học chiếm vị trí quan trọng ở bậc tiểu học. Đây là môn học tích hợp kiến thức của nhiều ngành khoa học thực nghiệm như : Vật lý, Hoá học, Sinh học, ... Vì vậy, môn học này có nhiều điều kiện thuận lợi để vận dụng các phương pháp dạy học tiên tiến, hiện đại vào quá trình dạy học để bước đầu hình thành cho học sinh phương pháp học tập mang tính chất tự tìm tòi nghiên cứu, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo cho học sinh. Thực tiễn dạy học môn Khoa học ở trường tiểu học cho thấy, giáo viên còn gặp nhiều khó khăn trong việc sử dụng phương pháp dạy học. Các phương pháp dạy học truyền thống vẫn chiếm ưu thế, học sinh học tập còn thụ động. Các thí nghiệm trong bài còn mang tính chất minh họa. Giáo viên còn tự mình trình bày, biểu diễn các thí nghiệm thực hành để minh họa cho kiến thức của bài học mà ít tổ chức cho học sinh tham gia hoạt động này để các em chiếm lĩnh tri thức khoa học một cách chủ động, thoả mãn nhu cầu tìm tòi hiểu biết, óc tò mò khoa học của học sinh. Vì vậy các giờ học còn mang tính áp đặt, kiến thức mà học sinh chiếm lĩnh trong giờ học chưa cao, các em ít được tham gia vào quá trình dạy học. Việc tìm kiếm và vận dụng các phương pháp tiên tiến vào quá trình dạy học các môn học ở tiểu học nói chung và môn Khoa học nói riêng là vấn đề quan trọng nhằm hình thành cho học sinh phương pháp học tập độc lập, sáng tạo, qua đó để nâng cao chất lượng dạy học. Một trong những phương pháp có nhiều ưu điểm, đáp ứng được mục tiêu trên và có thể vận dụng tốt vào quá trình dạy học môn Khoa học ở tiểu học là phương pháp "Bàn tay nặn bột". Việc nghiên cứu áp dụng phương pháp này vào dạy - Trong phương pháp “Bàn tay bặn bột”, học sinh được thoải mái đưa ra quan điểm của mình về sự vật, hiện tượng. Đó là những hiểu biết ban đầu của học sinh. Những hiểu biết này có thể đúng, chưa đầy đủ, hoặc có thể sai, đôi khi là ngây thơ, ngờ nghệch nhưng vẫn được tôn trọng, động viên và khích lệ. Khi học sinh đưa ra biểu tượng ban đầu của mình về vấn đề đặt ra, giáo viên không đưa ra lời nhận xét đúng sai mà để các em tự nhận thấy được trong quá trình kiểm tra giả thuyết. 3/ Nguyên tắc của phương pháp “Bàn tay nặn bột” Trong hiến chương về phương pháp “Bàn tay nặn bột” đã đưa ra 10 nguyên tắc như sau : 1) Trẻ quan sát một sự vật, hiện tượng của thế giới thực tại, gần gủi với chúng, dễ cảm nhận và tiến hành thực nghiệm về chúng. 2) Trong quá trình học tập, học sinh lập luận và đưa ra các lý lẽ, thảo luận những ý nghĩ và các kết quả của họ, xây dựng kiến thức cho mình, một hoạt động hoàn toàn chỉ dựa trên sách vở là không đủ. 3) Các hoạt động giáo viên đề ra cho học sinh được tổ chức theo các giờ học nhằm đến một sự tiến bộ trong học tập. Các hoạt động này gắn với chương trình và dành phần lớn quyền tự chủ cho học sinh. 4) Cần một thời lượng tối thiểu là 2giờ/tuần dành cho một đề tài và nó có thể kéo dài trong nhiều tuần. Tính liên tục của các hoạt động và những phương pháp sư phạm được đảm bảo trong toàn bộ hoạt động của nhà trường. 5) Mỗi học sinh có một quyển vở thí nghiệm và họ trình bày trong đó bằng ngôn ngữ của riêng mình. Vở thực hành là một công cụ quan trọng của phương pháp “Bàn tay nặn bột”. Đó là nơi hội tụ của suốt quá trình học khoa học và nắm bắt ngôn ngữ. Bởi vì ở trong đó, các em viết ra những suy nghĩ, thể hiện những hiểu biết, những việc làm và diễn đạt bằng chính ngôn ngữ của mình, có sự điều chỉnh, sửa chữa, giữ lại những vết tích của những thử nghiệm liên tiếp và như thế các em đánh giá được sự tiến bộ của mình (sự tiến bộ trong sử dụng ngôn ngữ, trong chất lượng của lý lẽ và trong nhận thức khoa học). 6) Mục tiêu chính là sự chiếm lĩnh dần dần các khái niệm khoa học và kỹ thuật được thực hành, kèm theo sự vững vàng trong diễn đạt nói và viết. 7) Gia đình, địa phương ủng hộ các hoạt động này của nhà trường. 8) Các nhà khoa học (ở các trường đại học, viện nghiên cứu) tham gia công việc ở lớp học bằng khả năng của mình. 9) Các cơ sở đào tạo giáo viên giúp các giáo viên về kinh nghiệm sư phạm và didactic. 10) Giáo viên có thể tìm thấy trên Site Internet những bài học đã được thực hiện, những ý tưởng về các hoạt động, những giải đáp thắc mắc. Họ cũng có thể trao đổi với các đồng nghiệp, các nhà sư phạm và với các nhà khoa học. Giáo viên là người chịu trách nhiệm giáo dục và đề xuất những hoạt động của lớp mình phụ trách. việc phát triển óc quan sát, trí tưởng tượng, tư duy, kỹ năng kỹ xảo thực hành, rèn luyện kỹ năng nói, viết và lập luận khoa học, giúp các em có cách nhìn nhận, cách khám phá một vấn đề khoa học xẩy ra trong đời sống hằng ngày. Như V.A Xukômlinxki viết : “Nhiệm vụ chủ yếu của cấp 1 là dạy cho trẻ biết sử dụng các công cụ mà con người suốt đời dùng nó để nắm bắt kiến thức, công cụ đó là cái gì nó bao hàm các kỹ năng, kỹ năng quan sát các hiện tượng của thế giới khách quan, kỹ năng suy nghĩ, kỹ năng biểu đạt được ý nghĩ của mình về những gì mình thích, mình làm, mình quan sát, kỹ năng đọc viết Trường tiểu học Kim Đồng được chọn làm thí điểm dạy học theo phương pháp Bàn tay nặn bột cách đây 4 năm và đến nay đã thực hiện dạy nhân rộng trong toàn trường, bản thân tôi được trực tiếp tham gia tập huấn dạy học theo phương pháp BTNB do Bộ giáo dục- Đào tạo tổ chức. Trong quá trình tổ chức triển khai thực hiên, tôi đã được giao lưu học hỏi kinh nghiệm với các bạn đồng nghiệp trong và ngoài tỉnh nên bản thân có điều kiện tốt để áp dụng phương pháp này. IV. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU: 1/ Nghiên cứu nội dung chương trình Khoa học lớp 5, lựa chọn bài dạy và xác định nội dung kiến thức áp dụng phương pháp BTNB: Phương pháp BTNB là một phương pháp dạy học tích cực dựa trên thí nghiệm nghiên cứu, áp dụng cho việc giảng dạy các môn khoa học tự nhiên. “ Bàn tay nặn bột”, chú trọng đến việc hình thành kiến thức cho học sinh bằng các thí nghiệm tìm tòi nghiên cứu để chính các em tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay điều tra... Không phải bài nào cũng áp dụng và phát huy tốt tác dụng của phương pháp này. Chính vì vậy lựa chọn bài để dạy và xác định nội dung kiến thức áp dụng phương pháp BTNB là vô cùng cần thiết đảm bảo cho sự thành công của tiết dạy. Ngay từ đầu năm học, bản thân tôi đã lên kế hoạch và lập nhật kí dạy học theo phương pháp BTNB với các bài cụ thể như sau. STT Bài Tên bài dạy Nội dung kiến thức áp dụng phương pháp Bàn tay nặn bột Sắt, gang, thép Nguồn gốc của sắt, gang, thép và tính 1 23 chất của chúng Đồng và hợp kim của đồng Tính chất của đồng: màu sắc, độ sáng, 2 24 tính cứng và tính dẻo 3 25 Nhôm Tính chất của nhôm 4 26 Đá vôi Tính chất của đá vôi 5 27 Gốm xây dựng : Gạch, ngói Tính chất của gạch, ngói 6 29 Thủy tinh Tính chất của thủy tinh 7 30 Cao su Tính chất đặc trưng của cao su vì có nhiều thí nghiệm phải làm đi làm lại nhiều lần mới cho ra kết quả. - Đối với ý kiến hay vấn đề đặt ra đơn giản, ít phương án hay thí nghiệm chứng minh thì giáo viên có thể cho học sinh trả lời trực tiếp phương án mà học sinh đề xuất. Ví dụ: Để tìm hiểu cấu tạo bên trong của hạt đậu, giáo viên dự kiến học sinh có thể yêu cầu mở hạt đậu ra để quan sát hoặc đề xuất xem tranh vẽ khoa học về cấu tạo bên trong của hạt đậu để trả lời cho câu hỏi về cấu tạo của hạt đậu. - Đối với các kiến thức phức tạp, thí nghiệm cần thực hiện để kiểm chứng, học sinh khó đề xuất đầy đủ và chuẩn xác, giáo viên có thể chuẩn bị một loạt các vật dụng liên quan đến việc làm thí nghiệm (không dùng để làm thí nghiệm) sau đó yêu cầu các nhóm lên lấy các đồ dùng cần thiết để làm thí nghiệm chứng minh. Như vậy học sinh sẽ phải suy nghĩ để tìm những vật liệu hợp lý cho ý tuởng thí nghiệm của mình. Khi đã có sự chuẩn bị, giáo viên có thể định hướng được học sinh làm thí nghiệm không quá xa với thí nghiệm cần làm đồng thời cũng dễ dàng chuẩn bị vật liệu thí nghiệm cho tiết học. Chú ý khi đưa các vật liệu làm thí nghiệm phải ghi chú rõ tên các vật dụng hoặc giới thiệu nhanh cho học sinh biết các vật dụng trong hộp đựng dụng cụ thí nghiệm. Nên để một số vật dụng có công dụng gần giống nhau để học sinh có thể thiết kế các thí nghiệm với nhiều kiểu thí nghiệm khác nhau cùng chức năng. VD: Có thể bỏ ống nghiệm và một chai nhựa không nắp, hai vật dụng này đều có thể dùng để đựng chất lỏng. Như vậy có nhóm sẽ dùng ống nghiệm nhưng có nhóm sẽ dùng chai nhựa để đựng chất lỏng. - Phương án tìm câu trả lời hay thí nghiệm kiểm chứng đều xuất phát từ những sự khác biệt của các ý tưởng ban đầu (biểu tượng ban đầu) của học sinh, vì vậy giáo viên nên xoáy sâu vào các điểm khác biệt gây tranh cãi đó để giúp học sinh tự đặt câu hỏi thắc mắc và thôi thúc học sinh đề xuất các phương án để tìm ra câu trả lời. - Một số phương án tìm câu trả lời có thể không phải làm thí nghiệm mà tìm câu trả lời bằng cách nghiên cứu các tài liệu (sách giáo khoa, từ rơi thông tin khoa học do giáo viên cung cấp...), hoặc quan sát (trên vật thật, trên mô hình, tranh vẽ khoa học.). - Đối với học sinh tiểu học, giáo viên nên giúp các em suy nghĩ đơn giản với các vật liệu thí nghiệm thân thiện, quen thuộc, hạn chế dùng những thí nghiệm phúc tạp hay dùng những vật dụng thí nghiệm quá xa lạ đối với học sinh. - Khi học sinh đề xuất phương án tìm câu trả lời, giáo viên không nên nhận xét phương án đó đúng hay sai mà chỉ nên hỏi ý kiến các học sinh khác nhận xét, phân tích. Nếu các học sinh khác không trả lời được thì giáo viên gợi ý những mâu thuẫn mà phương án đó không đưa ra câu trả lời được nhằm gợi ý để học sinh tự rút ra nhận xét và loại bỏ phương án. Giáo viên cũng có thể ghi chú trên bảng một lượt các ý kiến khác nhau rồi yêu cầu cả lớp cho ý kiến nhận xét. không hợp lý bằng các phương án khác. - Giáo viên chuẩn bị sẵn sàng cho tình huống học sinh không nêu được phương án tìm câu trả lời hoặc các phương án đưa ra quá ít, nghèo nàn về ý tưởng. Với trường hợp này giáo viên chuẩn bị sẵn một số phương án để đưa ra hỏi ý kiến của học sinh. - Giả sử tình huống mà học sinh quá nhút nhát, thụ động, nghèo ý tưởng, hoặc + Cao su có cách điện, cách nhiệt được không? + Cao su tan và không tan trong những chất nào? • Thực hiện phương án tìm tòi: Giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận đề xuất phương án tìm tòi để tìm hiểu về các tính chất của cao su. Học sinh có thể đề xuất nhiều cách khác nhau, nếu học sinh không đề xuất được những phương án cho kết quả tốt, giáo viên cần có những phương án thí nghiệm để gợi ý các phương pháp thí nghiệm: - Với nội dung tìm hiểu cao su có tính đàn hồi tốt, giáo viên gợi ý thí nghiệm: Ném quả bóng cao su xuống sàn nhà (vào tường) sẽ thấy quả bóng sẽ nảy lên (nảy ra). Kéo căng một sợi dây cao su, sợi dây giãn ra, buông tay ra, sợi dây cao su lại trở về vị trí cũ. - Với nội dung tìm hiểu cao su ít bị biến đổi khi gặp nóng, lạnh, cháy khi gặp lửa. Giáo viên gợi ý thí nghiệm: đổ nước sôi vào một li thủy tinh, li kia đổ đá lạnh đập nhỏ, sau đó bỏ vào vài sợi dây su vào cảu hai li. Sau vài phút, quan sát các sợi dây su sẽ thấy chúng không bị biến đổi nhiều, sờ vào sẽ thấy các sợi dây bỏ trong li nước nóng sẽ mềm hơn. Để biết cao su cháy khí gặp lửa, giáo viên sử dụng thí nghiệm: đốt nến, đưa sợi dây cao su dài vào ngọn lửa, sợi dây cao su sẽ nóng chảy. - Với nội dung cao su có thể cách nhiệt, giáo viên gợi ý thí nghiệm: đổ nước sôi vào li thủy tinh, sau đó lấy miếng cao su bọc ở bên ngoài li thủy tinh. Học sinh sờ tay vào miếng cao su bọc bên ngoài sẽ thấy miếng cao su không nóng. Hoặc dùng một đoạn cao su dài đốt cháy một đầu, cầm đầu dây bên kia thấy không nóng điều này cho thấy cao su có tính cách nhiệt tốt. Để chứng tỏ cao su có tính cách điện giáo viên cho học sinh làm thí nghiệm: dùng mạch điện đã chuẩn bị thắp sáng bóng đèn, sau đó thay dây dẫn điện bằng đoạn dây cao su, bóng đèn sẽ không sáng. - Với nội dung cao su tan và không tan trong một số chất, giáo viên gợi ý thí nghiệm: bỏ miếng cao su lót ở mặt trong nắp ken vào nước, miếng cao su ấy không tan trong nước. Bỏ miếng cao su ấy vào xăng, nó sẽ tan chảy. 3/ Tổ chức lớp học: a/ Bố trí vật dụng trong lớp học: Thực hiện dạy học khoa học theo phương pháp BTNB có rất nhiều hoạt động theo nhóm. Vì vậy để tiện lợi cho việc tổ chức thảo luận, hoạt động nhóm thì tôi đã sắp xếp bàn ghế theo nhóm cố định. Điều đó giúp giáo viên đỡ mất thời gian sắp xếp bàn ghế mỗi khi thực hiện hoạt động nhóm cho học sinh. Sắp xếp bàn ghế, vật dụng trong lớp học phù hợp với hoạt động nhóm đảm bảo các yêu cầu sau: - Các nhóm bàn ghế cần sắp xếp hài hòa theo số lượng học sinh trong lớp; - Cần chú ý đến hướng ngồi của các học sinh sao cho tất cả học sinh đều nhìn thấy rõ thông tin trên bảng; - Lưu ý đối với các học sinh bị các tật quang học ở mắt như cận thị, loạn thị để bố trí cho các em ngồi với tầm nhìn không quá xa bảng chính, màn hình máy chiếu projector,
File đính kèm:
- skkn_mot_so_kinh_nghiem_ap_dung_phuong_phap_ban_tay_nan_bot.docx
- SKKN Một số kinh nghiệm áp dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào môn Khoa học Lớp 5.pdf