Sáng kiến kinh nghiệm Một vài biện pháp giúp học sinh học tốt văn miêu tả Lớp 5

doc 10 trang thanh 05/02/2024 1800
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một vài biện pháp giúp học sinh học tốt văn miêu tả Lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một vài biện pháp giúp học sinh học tốt văn miêu tả Lớp 5

Sáng kiến kinh nghiệm Một vài biện pháp giúp học sinh học tốt văn miêu tả Lớp 5
 Đề tài sáng kiến kinh nghiệm Lớp 5
 PHẦN 1. THỰC TRẠNG ĐỀ TÀI
 Năm học 2017-2018, tơi được phân cơng phụ trách lớp Năm với 31 học 
 sinh. Hầu hết học sinh của lớp tơi chủ nhiệm cịn rất hạn chế khi làm bài Tập 
 làm văn. Sau khi nghiên cứu sách giáo khoa Tiếng Việt 4, tơi nhận thấy học 
 sinh lớp Bốn đã được học văn miêu tả về đồ vật, cây cối, con vật, nhưng qua 
 khảo sát chất lượng đầu năm của mơn Tiếng Việt với 31 bài tập làm văn kết 
 quả như sau:
 TS Bài chưa hồn 
 Bài hồn thành tốt Bài hồn thành
 HS thành
 SL TL SL TL SL TL
 31
 3 9,67% 21 67,75% 7 22,58%
 Từ kết quả trên cho thấy, bài hồn thành tốt cĩ nhưng tỉ lệ chưa cao, bài 
 hồn thành khá nhiều, bài chưa hồn thành cũng cĩ. Điều này cho thấy các 
 em chưa nắm chắc kiến thức kĩ năng làm văn. Đa số bài chưa đạt yêu cầu là 
 do:
 - Bài văn sơ sài, sử dụng vốn từ cịn nghèo nàn.
 - Lời văn lủng củng, ý rời rạc chưa nêu bật trọng tâm đề bài.
 - Chưa thể hiện tình cảm bản thân khi miêu tả.
 - Khi làm văn, các em chưa xác định được yêu cầu trọng tâm của đề bài.
 - Một số em làm theo văn mẫu hoặc chỉ viết theo dàn bài mà giáo viên đã 
 hướng dẫn lập. 
 Thực trạng học sinh cịn nhiều hạn chế như vậy đã làm cho tiết Tập làm 
 văn trở thành một gánh nặng, một thách thức đối với giáo viên tiểu học. Ý 
 nghĩ cho rằng Tập làm văn là một phân mơn khĩ dạy, khĩ học và khĩ đạt hiệu 
 quả cao đã là nhận thức chung của nhiều thầy cơ giáo dạy lớp Năm. Từ lí do 
 trên tơi đã chọn đề tài: “Một vài biện pháp giúp học sinh học tốt văn miêu tả 
 lớp Năm” để nghiên cứu.
 PHẦN 2. NỘI DUNG CẦN GIẢI QUYẾT
 Từ thực trạng của lớp, tơi nghĩ cần phải đưa ra những giải pháp để giúp 
 các em học tốt hơn về văn miêu tả. Qua tìm hiểu sách báo, những sáng kiến 
 các đồng nghiệp thực hiện năm qua, tơi áp dụng vào việc giảng dạy cho các 
 em nhằm từng bước nâng cao chất lượng làm văn. Những nội dung đĩ là:
 - Hướng dẫn học sinh lưu ý khi làm từng kiểu bài văn miêu tả.
 - Rèn luyện cho học sinh kĩ năng tìm hiểu đề văn miêu tả.
 - Củng cố kiến thức và rèn kĩ năng viết văn cho học sinh.
 - Bộc lộ cảm xúc trong bài văn.
Người thực hiện: Lục Thị Á Múi Trang 1 Đề tài sáng kiến kinh nghiệm Lớp 5
 năm sau nữa, từ một thân lẻ, thảo quả đâm thêm hai nhánh mới. Sự sinh sơi 
 sao mà mạnh mẽ vậy.”
 Bên cạnh đĩ, giáo viên cần hướng dẫn và rèn luyện cho học sinh kĩ 
 năng sử dụng các giác quan (thính giác, thị giác, xúc giác, vị giác,...) để quan 
 sát, cảm nhận sự vật, hiện tượng miêu tả.
 Ví dụ: Phân tích bài “Mưa rào” Tiếng Việt 5- Tập I ta thấy tác giả đã quan 
 sát bằng các giác quan như sau:
 - Thị giác: Thấy những đám mây biến đổi trước cơn mưa, thấy mưa rơi.
 - Xúc giác: Giĩ bỗng thấy mát lạnh, nhuốm hơi nước.
 - Khứu giác: Biết được mùi nồng ngai ngái, xa lạ man mác của những 
 trận mưa đầu mùa.
 - Thính giác: Nghe thấy tiếng giĩ thổi, tiếng mưa rơi, tiếng sấm, tiếng 
 hĩt của chào mào.
 II. Rèn luyện cho học sinh kĩ năng tìm hiểu đề văn miêu tả:
 Ở lớp năm, học sinh được học Tập làm văn miêu tả theo những đề bài 
 cho trước với những yêu cầu nhất định. Tìm hiểu đề là kĩ năng đầu tiên mà 
 học sinh phải tiến hành trong quá trình làm bài. Ở đây giáo viên cần giúp học 
 sinh biết cách xác định yêu cầu của đề, tránh được sự lúng túng trong quá 
 trình triển khai bài viết, dẫn đến viết xa đề, lạc đề. 
 Để giúp học sinh thực sự thuần thục kĩ năng tìm hiểu đề văn miêu tả, 
 cần chú ý hướng dẫn các em một số thao tác sau đây khi tìm hiểu đề.
 Ví dụ: Đề bài ở tuần 4 lớp Năm như sau:
 Tả cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều) trong một vườn cây (hay trong 
 cơng viên, trên đường phố, trên cánh đồng, nương rẫy). 
 Với đề bài trên, ẩn chứa 3 yêu cầu sau:
 - Yêu cầu về thể loại của đề là: Miêu tả (thể hiện ở từ “Tả”).
 - Yêu cầu về nội dung là: Buổi sáng (hoặc trưa, chiều) thể hiện ở cụm 
 từ “cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều)”.
 - Yêu cầu về trọng tâm là: Ở trong một vườn cây (hay trong cơng 
 viên.).
 Trong thực tế, khơng phải đề bài nào cũng xác định đủ 3 yêu cầu. Như đề 
 bài “Tả một cơn mưa” chỉ cĩ yêu cầu về thể loại và nội dung. Với đề bài này, 
 giáo viên cần giúp học sinh tự xác định thêm yêu cầu về trọng tâm của bài 
 viết. Chẳng hạn “Tả một cơn mưa khi em đang trên đường đi học”...
 Việc thực hiện các thao tác trên trong quá trình tìm hiểu đề sẽ giúp 
 học sinh cĩ hiểu biết đầy đủ về đề văn miêu tả, từ đĩ cĩ hứng thú hơn khi viết 
 bài văn và phát huy cao nhất khả năng sáng tạo trong bài văn.
Người thực hiện: Lục Thị Á Múi Trang 3 Đề tài sáng kiến kinh nghiệm Lớp 5
 Trong phân mơn tập làm văn, kĩ năng viết văn miêu tả cĩ thể chia thành 
 các nhĩm sau:
 - Nhĩm kĩ năng giúp học sinh tiếp cận, chuẩn bị cho việc sản sinh ra văn 
 bản gồm cĩ kĩ năng phân tích đề bài, kĩ năng tìm ý và lựa chọn ý, kĩ năng xây 
 dựng dàn ý trong bài văn miêu tả.
 - Nhĩm kĩ năng viết văn miêu tả gồm các kĩ năng: dùng từ đặt câu, viết 
 đoạn, liên kết đoạn văn thành bài văn.
 - Nhĩm kĩ năng kiểm tra kết quả (được dùng trong giai đoạn kiểm tra kết 
 quả bài làm của học sinh) gồm các kĩ năng sau: kĩ năng phát hiện lỗi, từ lỗi về 
 cách dùng từ, lỗi chính tả, lỗi đặt câu đến lỗi viết văn bản, lỗi về nội dung, 
 cảm xúc được thể hiện rõ nét trong bài làm của học sinh.
 Thơng qua việc luyện tập các nội dung này, học sinh biết cách tạo lập một 
 văn bản miêu tả hồn chỉnh theo từng cơng đoạn một cách chắc chắn. Trong 
 đĩ giáo viên tập trung rèn luyện kĩ năng viết đoạn miêu tả cho học sinh như 
 đoạn mở bài, đoạn kết bài, các đoạn trong phần thân bài. 
 a. Hướng dẫn học sinh viết phần mở bài:
 Mở bài là một phần trong bố cục của bài văn miêu tả. Phần mở bài cĩ 
 nhiệm vụ giới thiệu nội dung sẽ nĩi đến yêu cầu của đề bài, hướng vào đề 
 văn, cần giới thiệu ngắn gọn, cụ thể về đối tượng được miêu tả. Nếu một bài 
 văn cĩ phần mở bài hay sẽ gây ấn tượng rất lớn cho người đọc. 
 Cĩ nhiều cách mở bài khác nhau nhưng tùy theo đối tượng và cảm 
 hứng của mỗi người. Sau đây là một số cách mở bài thường gặp.
 + Mở bài trực tiếp: giới thiệu ngay người hay sự vật định tả một cách 
 cụ thể rõ ràng. Với cách mở bài này giáo viên nên khuyến khích học sinh cĩ 
 khả năng học văn ở mức hồn thành vận dụng để viết.
 Ví dụ: Em cĩ rất nhiều anh chị em nhưng người mà em yêu quý nhất là bé 
 Lan, năm nay mới hai tuổi.
 + Mở bài theo kiểu gián tiếp: là nĩi chuyện khác cĩ liên quan rồi mới 
 tìm ra cái cớ để dẫn vào chuyện hay đối tượng định tả một cách sinh động và 
 hấp dẫn.
 Ví dụ: Hằng ngày em được tiếp xúc với rất nhiều người, mỗi người đều 
 mang một hình dáng và tính cách khác nhau. Ai cũng để lại trong em những 
 ấn tượng khác nhau khi giao tiếp. Nhưng đĩ là những người em khơng thân 
 thiết lắm nên khơng thể vỗ về, động viên và chăm sĩc em hằng ngày được. 
 Chỉ cĩ mẹ là người vĩ đại nhất, mẹ luơn yêu quý em.
Người thực hiện: Lục Thị Á Múi Trang 5 Đề tài sáng kiến kinh nghiệm Lớp 5
 sát trước, tả trước; các bộ phận khác quan sát sau, tả sau. Nhưng cũng khơng 
 nhất thiết phải miêu tả tất cả các đặc điểm của đối tượng. Trình tự này thường 
 được vận dụng khi tả người.
 Trong phần thân bài những ý tưởng viết ra cần phải chân thật, đúng 
 với những điều mình thấy và cảm nhận được từ đối tượng. Điều quan trọng là 
 các em phải biết chọn lọc những chi tiết tiêu biểu, đặc sắc để đưa vào đĩ thì 
 bài văn mới nổi bật được trọng tâm, thốt khỏi bệnh khuơn sao, máy mĩc. 
 Tránh viết một cách mơng lung, dễ lạc đề.
 Ví dụ: Khi tả hình dáng cơ giáo thì trọng tâm là những nét đặc sắc về hình 
 dáng của cơ, khơng nên chăm chú tả kĩ những đồ dùng cơ mang như: giỏ 
 sách, đơi dép,...
 Giáo viên nên giúp các em chọn lọc những chi tiết đặc sắc để đưa 
 vào bài văn. 
 Ví dụ:
 + Tả bố đang đọc báo thì chọn chi tiết: tư thế ngồi (nằm) mắt chăm 
 chú vào tờ báo
 Hoặc: + Tả một cơn mưa thì tả cảnh nổi bật: bầu trời trước khi mưa, trong 
 mưa: âm thanh những hạt mưa. Sau mưa: cảnh vật được giội rửa
 + Tả một dịng sơng quê em vào buổi sáng: mặt sơng đĩn những tia 
 nắng ấm áp, các phương tiện trên sơng, cảnh hai bên bờ sơng
 + Tả đường làng vào buổi chiều: hồng hơn buơng xuống, khơng khí 
 dễ chịu, trên đường làng các bác nơng dân đi làm đồng về
 Sau khi tìm được các ý, giáo viên hướng dẫn các em sắp xếp các ý để viết 
 thành bài văn tránh liệt kê chi tiết khi tả và hạn chế tả mà như kể bằng cách 
 giúp các em diễn đạt cĩ sử dụng biện pháp nghệ thuật để bài văn trở nên sinh 
 động, hấp dẫn người đọc.
 Ví dụ: Khi tả về cơ gồm các chi tiết: ngồi ba mươi tuổi, dong dỏng cao, 
 mặt trịn, trắng, tĩc đen, dài, giản dị, hiền lành.
 - Giáo viên hướng dẫn học sinh phát triển các ý thành câu văn: “Cơ em 
 ngồi ba mươi tuổi. Người dong dỏng cao. Mặt cơ trịn và trắng. Tĩc cơ đen 
 và dài. Tính cơ rất giản dị và hiền lành.
 - Giáo viên cĩ thể hướng dẫn học sinh sửa câu văn cho hay kết hợp sử 
 dụng biện pháp nghệ thuật để phát triển thành đoạn văn logic, sinh động hơn: 
 “Cơ em ngồi ba mươi tuổi. Người dong dỏng cao, mặt cơ hơi trịn và trắng 
 nên trơng rất phúc hậu. Chính cái làn da ấy càng tơn thêm vẻ đẹp mái tĩc dài 
 thướt tha và đen nhánh của cơ. Hàng ngày đến lớp cơ chỉ mặc chiếc áo dài 
Người thực hiện: Lục Thị Á Múi Trang 7 Đề tài sáng kiến kinh nghiệm Lớp 5
 - Được bà chăm sĩc hằng ngày, em nghĩ gì? (Tình cảm gần gũi thương yêu 
 của bà như chắp cánh cho tơi vững bước trong cuộc đời).
 - Dọn dẹp lớp xong, em cĩ cảm giác gì?( Lớp học sạch sẽ, thật mát mẻ).
 - Giờ ra chơi kết thúc, trên khuơn mặt của mọi người thể hiện điều gì?
 ( Khuơn mặt ai cũng vui vẻ, rạng rỡ, nhưng nhiều bạn tỏ vẻ luyến tiếc). 
 Tương tự như vậy, tơi yêu cầu học sinh đưa ra những suy nghĩ, cảm xúc, 
 nhận xét trước một sự vật hay hiện tượng bất kì. Bài văn của học sinh hạn chế 
 được nhược điểm khơ khan, liệt kê sự việc, mà thấm đượm cảm xúc của 
 người viết.
 PHẦN 4. KẾT QUẢ 
 Sau khi áp dụng những kinh nghiệm trên vào việc giảng dạy phân mơn 
 Tập làm văn, đến cuối học kì I các em đã nắm được một số vốn kiến thức 
 nhất định để học cĩ hiệu quả phân mơn Tập làm văn. Cả lớp đều ham thích 
 mơn học, khơng sợ sệt khi đến tiết Tập làm văn như đầu năm học nữa. Bài 
 làm của các em đa số đã cĩ tiến bộ, học sinh nắm được cách sắp xếp ý, bố cục 
 chặt chẽ, dùng từ chính xác, viết câu văn trơi chảy, mạch lạc, bước đầu cĩ 
 hình ảnh, cảm xúc, hiểu và vận dụng khá tốt các biện pháp tu từ trong các bài 
 Tập làm văn của mình. Các em cảm thụ được bài văn, đọc bài trơi chảy, hiểu 
 đúng nội dung bài, nhất là rất tự tin khi đến tiết học Tập làm văn.
 Với kết quả trên, thế là chẳng phụ lịng, đến nay kết quả làm bài đã đạt 
 được như điều tơi mong muốn: khơng cịn bài chưa hồn thành. Cụ thể:
 TS Bài chưa hồn 
 Bài hồn thành tốt Bài hồn thành
 HS thành
 SL TL SL TL SL TL
 31
 6 19,35% 25 80,65% 0 0
 Từ những kết quả đạt được nêu trên, tơi thấy dạy học phân mơn Tập làm 
 văn ở lớp Năm khơng những chỉ giúp cho học sinh biết vận dụng các kiến 
 thức đã học vào thực tiễn cuộc sống, mà cịn giúp các em phát triển tư duy, cĩ 
 khả năng sáng tạo trong viết câu, viết đoạn văn hoặc viết bài Tập làm văn hay 
 đạt kết quả. Diễn biến chất lượng phân mơn Tập làm văn sau khi áp dụng đề 
 tài này thật đáng phấn khởi, đây là kết quả của một quá trình phấn đấu của cơ 
 và trị. Chất lượng phân mơn Tập làm văn đi lên rõ rệt đã gĩp phần quan trọng 
 vào việc nâng cao chất lượng mơn Tiếng Việt của lớp và của tổ chuyên mơn.
Người thực hiện: Lục Thị Á Múi Trang 9

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_vai_bien_phap_giup_hoc_sinh_hoc_to.doc