Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh Lớp 5

doc 15 trang thanh 29/01/2024 1210
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh Lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh Lớp 5

Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh Lớp 5
 Một số phương pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả lớp Năm
 PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CHÂU PHÚ
 Trường Tiểu học “C” Mỹ Đức
 ******************
 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
 Đề tài:
 MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP 
 RÈN KĨ NĂNG LÀM VĂN MIÊU TẢ 
 CHO HỌC SINH LỚP NĂM
 Người thực hiện :
 Lâm Thanh Phong
 (GVCN lớp 5)
 THÁNG 10- NĂM 2012
Lâm Thanh Phong - 1 - TH “C” Mỹ Đức Một số phương pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả lớp Năm
đề tài, tôi mong muốn sẽ có được bài học kinh nghiệm để có thể áp dụng vào thực tiễn 
giảng dạy môn Tập làm văn trong trường Tiểu học “C” Mỹ Đức nói riêng, trong ngành 
giáo dục Huyện Châu Phú nói chung. Điều này càng có ý nghĩa nếu đề tài thành công, 
đồng thời là chất lượng học tập của các em học sinh cũng sẽ được nâng lên một cách 
đáng kể.
 Chỉ tiêu: Cuối năm học, 100% học sinh có thể làm được bài văn miêu tả theo yêu 
cầu. Trên cơ sở kiến thức, kĩ năng về văn miêu tả đã được học, các em vận dụng tốt ở các 
lớp trên.
III. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu:
1. Phạm vi nghiên cứu:
 Nhằm đi sâu vào một vấn đề và chỉ dừng ở mức độ sáng kiến kinh nghiệm nên tôi 
chỉ giới hạn đề tài trong phạm vi nghiên cứu việc dạy học kiểu bài văn miêu tả cho học 
sinh lớp Năm. Với phạm vi nghiên cứu như vậy, tôi hi vọng sẽ thu được nhiều kết quả 
khả quan, góp phần thực hiện nhiệm vụ của một nhà giáo trong giai đoạn mới. 
2. Đối tượng nghiên cứu:
 Học sinh lớp 5C Trường Tiểu học “C” Mỹ Đức. Trong quá trình áp dụng sáng 
kiến kinh nghiệm, tôi có chú ý phân loại đối tượng học sinh theo trình độ Khá, Giỏi và 
học sinh Trung bình, Yếu.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu:
 Chọn đề tài này để nghiên cứu, tôi đề ra những nhiệm vụ cho từng giai đoạn như 
sau:
 a) Giai đoạn 1: (Năm học 2010- 2011)
 Điều tra phân loại đối tượng học sinh lớp 5C của trường. Từ đó mạnh dạn áp 
dụng những biện pháp nhằm giúp học sinh yêu thích và học tốt kiểu bài miêu tả trong 
chương trình Tiếng Việt lớp Năm.
 b) Giai đoạn 2: (Năm học 2011- 2012)
 Phát triển sáng kiến kinh nghiệm thành đề tài nghiên cứu. Tiếp tục áp dụng những 
biện pháp nhằm giúp học sinh lớp Năm, nhất là học sinh trung bình- yếu yêu thích và học 
tốt kiểu bài miêu tả.
Lâm Thanh Phong - 3 - TH “C” Mỹ Đức Một số phương pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả lớp Năm
 + Đôi lúc, do nhiều nguyên nhân, một số giáo viên vẫn lạm dụng phương pháp 
“làm mẫu” đối với học sinh trung bình, yếu, từ đó dẫn đến tình trạng học sinh “coppy” 
nhau hoặc học thuộc bài văn mẫu.
 + Thời gian quy định đối với một tiết học cũng là một trong những nguyên nhân 
ảnh hưởng đến việc dạy Tập làm văn trong nhà trường Tiểu học.
 + Trong các lớp vẫn còn rải rác một số học sinh yếu, cá biệt, có học sinh đọc chưa 
thông, viết chưa thạo. Đây là một trở ngại lớn cho việc dạy học tập làm văn cho các em. 
Với những học sinh này, yêu cầu đặt từng câu văn rời rạc còn khó, nói gì đến việc hướng 
dẫn các em đặt một đoạn văn theo cầu.
 + Trong địa bàn trường tôi, hầu hết học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn, các 
em vừa học vừa phụ tiếp gia đình công việc đồng áng, mưu sinh. Việc đảm bảo chuyên 
cần cho những học sinh trung bình, yếu rất khó. Các em rất hay nghỉ học với 
rất nhiều lí do hoặc nhiều khi chỉ vì “không muốn đến lớp”. Đi học không đều, việc tiếp 
thu bài của các em chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng rất nhiều.
 + Kĩ năng làm văn miêu tả của các em học sinh yếu hầu như không có. Các em 
chưa biết cách quan sát, thực hiện làm một bài văn miêu tả chưa đúng quy trình, chưa 
biết cách chọn lọc các chi tiết miêu tả đặc sắc để đưa vào bài văn, làm cho bài văn thành 
“một mớ hỗn độn” của các chi tiết hoặc là thành “một bản liệt kê” với rất nhiều chi tiết.
 - Với học sinh khá, giỏi, việc dạy học tập làm văn cũng gặp một số tồn tại sau:
 + Do trong lớp có nhiều đối tượng học sinh nên giáo viên thường sử dụng phương 
pháp làm mẫu để tạo đà giúp học sinh trung bình, yếu làm văn. Phương pháp này giúp 
học sinh yếu có thể làm được bài bằng những gợi ý. Tuy nhiên, một số học sinh học 
được lại thường hay bắt chước các câu, đoạn văn mẫu nên nhiều bài làm có các câu, đoạn 
giống nhau.
 + Có sự chênh lệch rất lớn về trình độ của học sinh khá, giỏi và học sinh trung 
bình, yếu nên giáo viên rất khó sử dụng các phương pháp “hiện đại” để có thể thực hiện 
tốt nhiệm vụ giáo dục. Nếu chú ý đến học sinh khá, giỏi thì sẽ bỏ qua học sinh trung bình, 
yếu. Nhưng nếu tập trung vào học sinh trung bình, yếu, kiên trì với đối tượng này đạt 
được yêu cầu bài văn thì lại ảnh hưởng đến sự phát triển của số học sinh khá, giỏi.
 + Học văn miêu tả, làm văn miêu tả nhưng nhiều học sinh lại thiếu vốn sống thực 
tế nên dẫn đến một số tình huống hay gặp trong dạy học văn miêu tả như: Học sinh 
không biết làm bài nên bỏ giấy trắng hoặc làm bài văn rất ngắn- khoảng 4, 5 dòng; các 
Lâm Thanh Phong - 5 - TH “C” Mỹ Đức Một số phương pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả lớp Năm
 Ví dụ: Đề bài trong sách giáo khoa Tiếng Việt 5- tập 2- trang 134: Tả một khu vui 
chơi, giải trí mà em thích
 Với những đề bài như thế này, tôi mạnh dạn thay bằng đề bài khác (thông qua 
buổi sinh hoạt chuyên môn của tổ)
 - Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là không cho học sinh có cơ hội phát huy 
trí tưởng tượng của mình. Trong một lớp học có nhiều đối tượng học sinh như lớp tôi, khi 
ra đề bài cho các em, tôi luôn tạo cho các em quyền lựa chọn bằng cách ra nhiều đề bài 
(từ 2 đến 4 đề) để các đối tượng trong lớp đều có thể tự do chọn đề bài thích hợp cho 
mình, tránh áp đặt cho các em. 
 Ví dụ: Khi ra đề bài tả người cho các em làm bài kiểm ta viết, tôi chọn bốn đề bài 
sau:
 a) Tả một người thân trong gia đình em.
 b) Tả một người bạn cùng lớp hoặc người bạn thân gần nhà em.
 c) Tả một ca sĩ hay một nghệ sĩ hài mà em yêu thích.
 d) Tả thầy giáo hoặc cô giáo mà em kính mến. 
 Với bốn đề bài trên, các em có thể chọn đối tượng miêu tả là một nhân vật quen 
thuộc, gần gũi. Nhưng với một vài học sinh khác, các em cũng có thể chọn tả ca sĩ đang 
biểu diễn với rất nhiều chi tiết sống động mà các em đã có dịp quan sát trên ti vi qua các 
chương trình ca nhạc hoặc phim ảnh.
4. Hướng dẫn học sinh lập dàn ý:
 Đây là một việc làm khó. Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh lập dàn ý trước 
khi làm thành một bài văn hoàn chỉnh. Có lập được dàn bài thì mới có thể tìm ý, sắp xếp 
ý, viết thành một bài văn mạch lạc, bố cục rõ ràng, ý văn trong sáng.
5. Sử dụng phương pháp luyện tập theo mẫu:
 Gợi ý cho học sinh khá, giỏi làm bài, trình bày câu văn, đoạn văn. Cả lớp theo dõi, 
nhận xét, giáo viên chốt lại. Nhưng điểm mấu chốt là giáo viên phải chú ý từng đối tượng 
học sinh, sửa chữa từng em, động viên sự sáng tạo của các em, dù là rất nhỏ.
 Dựa trên một đề văn cụ thể, giáo viên hướng dẫn học sinh vận dụng các kiến thức 
kĩ năng đã học về đề văn đó để làm nhiều bài khác nhau, nhất là với đối tượng học sinh 
trung bình, yếu. Ví dụ: Học bài văn tả người thân, học sinh tả ông nội. Khi gặp một đề 
văn yêu cầu tả một người hàng xóm, học sinh có thể sử dụng thứ tự miêu tả, bố cục, các 
Lâm Thanh Phong - 7 - TH “C” Mỹ Đức Một số phương pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả lớp Năm
làn gió mát từ mặt kinh và cánh đồng đưa tới. Đây là ngôi trường thân yêu đã được xây 
dựng từ rất lâu rồi”.
7. Chấm bài thường xuyên:
 Đi đôi với công việc chấm bài là phải hướng dẫn học sinh sửa bài. Phải giúp các 
em phát hiện ra những điểm hay cần học tập và những điểm chưa hay, chưa đạt để sửa 
chữa trong bài văn của mình. Trên cơ sở đó, các em phải sửa lại bài làm của mình cho 
hay hơn, đúng hơn.
 Giáo viên cần tránh việc chê bai các em nhưng cũng không được lạm dụng lời 
khen, tạo sự thờ ơ của học sinh đối với lời khen do được khen quá nhiều, khen không 
đúng lúc. Kiểu như mỗi lần các em nói xong, nhiều lúc chỉ là nhận xét bạn đã viết hoa 
đầu câu chưa, giáo viên đều nhận xét “Em giỏi lắm!”.
8. Làm giàu vốn từ cho học sinh:
 Nếu học kiểu bài kể chuyện, học sinh chỉ tái hiện lại nội dung câu chuyện đã nghe, 
đã đọc là có thể đạt được yêu cầu cơ bản của đề bài thì văn miêu tả đòi hỏi phải có một 
vốn từ phong phú mới có thể làm bài. Thế giới quanh ta rất phong phú, đa dạng và không 
ngừng biến đổi. Người viết văn không thể “vẽ” được một cảnh, một người nếu bản thân 
người ấy thiếu vốn từ, vốn sống.
 Làm giàu vốn từ cho học sinh có nghĩa là giúp cho các em nắm một số từ gợi tả để 
có thể dùng trong miêu tả. Ví dụ: Giáo viên yêu cầu học sinh tìm các từ ngữ gợi tả mái 
tóc (vàng hoe, đen nhánh, bạc phơ, cháy nắng, óng ả, xoăn tít,); khuôn mặt (bầu bĩnh, 
vuông chữ điền, trái xoan, khắc khổ,); nước da ( trắng trẻo, trắng hồng, ngăm ngăm, 
bánh mật, đen sạm,); dáng người ( nhỏ nhắn, gầy gò, đẫy đà, to khoẻ, cao cao,); nụ 
cười ( khanh khách, sằng sặc, mủm mỉm, ha hả,).
 Cho học sinh tìm từ bằng các hình thức như: quan sát thực tế (quan sát người bạn), 
quan sát tranh ảnh, xem phim, đọc sách, nhất là qua các phân môn của Tiếng Việt hoặc 
các môn học khác và qua hình thức trò chơi,
9. Giúp học sinh luyện viết câu:
 - Trước hết, mọi học sinh phải viết được câu văn đúng ngữ pháp. Đây là yêu cầu 
cơ bản (vì câu là đơn vị lời nói). Đối với học sinh giỏi, giáo viên yêu cầu học sinh đặt câu 
đúng ngữ pháp, giàu hình ảnh, tạo được sắc thái riêng của đối tượng miêu tả. Đối với học 
sinh trung bình, yếu, giáo viên hướng dẫn học sinh đặt được câu đúng, thể hiện được ý 
cần nói. Ví dụ: Miêu tả mái tóc của một bạn:
Lâm Thanh Phong - 9 - TH “C” Mỹ Đức Một số phương pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả lớp Năm
 Để hướng dẫn tìm hiểu cảm nhận cái hay, cái đẹp của đoạn văn, giáo viên hướng 
dẫn các em hình thành thói quen suy nghĩ, tự đặt và ghi các câu hỏi xoay quanh nội dung 
đoạn văn. Kết quả học sinh có thể tự đặt các câu hỏi như:
 + Đoạn văn này miêu tả đặc điểm gì của nhân vật ?
 + Đoạn văn này dùng những từ láy nào để miêu tả hình ảnh của nhân vật ?
 + Có thể dùng những hình ảnh so sánh nào cho đoạn văn ?...
12. Rèn kĩ năng sắp xếp, diễn đạt ý:
 Đề bài: Hãy miêu tả một người bạn thân của em.
 Học sinh quan sát, viết nhanh ra giấy những điều mà mình quan sát được. Ví dụ:
 + Bạn Thu Nga học chung lớp với em.
 + Bạn chơi thân với em từ năm học lớp Một.
 + Chúng em rất thân nhau.
 + Em sẽ cố gắng làm những điều thật tốt để tình bạn của chúng em mãi mãi bền 
lâu.
 + Những ngày bạn nghỉ học, em cảm thấy rất nhớ.
 + Bạn có nước da ngăm ngăm của một người con gái đồng quê.
 + Bạn hay phát biểu và hiểu bài rất nhanh nên được thầy và các bạn khen ngợi.
 + Bạn rất hay cười.
 + Mái tóc bạn không đen như tóc em nhưng dài hơn.
 + Bằng tuổi với em nhưng cao hơn em một cái đầu.
 + Nga viết chữ rất đẹp. Bạn đã được chọn dự thi viết chữ đẹp vòng trường và đạt 
giải ba. 
 + Mỗi khi bạn cười, hai lúm đồng tiền trên má hiện rõ trên khuôn mặt ngăm đen 
dễ thương.
 + Bạn không gây gỗ với ai bao giờ.
 + Thầy cô thường lấy bạn để làm gương.
 Sau khi tìm ý, cho các em chọn và sắp sếp ý thành các đoạn Mở bài, Thân bài, Kết 
bài phù hợp. Ví dụ:
 * Đoạn mở bài:
 Em và bạn Thu Nga chơi thân với nhau từ năm lớp Ba. Chúng em rất thân nhau. 
Đi học, em thường đi chung với bạn.
 * Đoạn thân bài:
Lâm Thanh Phong - 11 - TH “C” Mỹ Đức

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_phuong_phap_ren_ki_nang_lam_van.doc