Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm giúp học sinh Lớp 5 học tốt kiểu bài tập làm văn tả người
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm giúp học sinh Lớp 5 học tốt kiểu bài tập làm văn tả người", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm giúp học sinh Lớp 5 học tốt kiểu bài tập làm văn tả người
SKKN:“Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 5 học tốt kiểu bài tập làm văn tả người”. PHẦN 1. THỰC TRẠNG ĐỀ TÀI: Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy trên lớp, tôi nhận thấy rằng các em rất ngại học phân môn Tập làm văn, nhất là khi làm bài văn viết. Vì kỹ năng làm bài của các em còn hạn chế, chất lượng bài làm chưa cao. Nhiều em còn chưa hiểu quan sát là gì? Mặt khác do vốn từ của các em chưa phong phú nên các em dùng từ chưa chính xác, lủng củng, lộn xộn, Hầu hết các em chưa biết cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật như nhân hóa, so sánh, điệp từ, điệp ngữ, từ láy, nên bài văn của các em tuy đủ ý nhưng rất khô khan. Năm học 2017 – 2018, tôi chủ nhiệm lớp 5/5 với 30 học sinh, lớp có vài em tiếp thu chậm về văn miêu tả. Khi dạy đến dạng bài văn miêu tả tôi cho các em làm bài viết để nắm bắt tình hình viết bài văn miêu tả của học sinh lớp mình. Đề bài: Tả một người bạn mà em yêu thích. Kết quả làm bài của các em thu được như sau: Tổng số học sinh Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành 30 học sinh 0 em 20 em = 66,6% 10 em = 33,3 % Các em học sinh hoàn thành thì bài viết đủ ba phần, các phần có đủ ý nhưng nên bài văn ngắn chỉ từ 15 đến 20 câu. Còn học sinh chưa hoàn thành thì bài văn của các em ít ý, khô khan,... Có em làm lạc đề bài. Qua kết quả trên, tôi nhận thấy là do những nguyên nhân: Học sinh chưa biết xác định kĩ đề bài. Khả năng quan sát của các em chưa thấu đáo. Các em không có kỹ năng lập dàn ý bài trước khi viết bài văn. Vốn từ miêu tả của các em còn ít, sơ sài. Vì vậy tôi chọn đề tài: “Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 5 học tốt kiểu bài tập làm văn tả người”. Áp dụng cho học sinh lớp 5/5 trường Tiểu học Huỳnh Văn Đảnh. PHẦN 2. NỘI DUNG CẦN GIẢI QUYẾT: - Giúp học sinh nắm chắc yêu cầu của đề bài. - Hướng dẫn học sinh quan sát và tái hiện quan sát để tìm ý, lập dàn bài chi tiết. - Hướng dẫn học sinh ghi lại các nhận xét qua quá trình quan sát được. - Hướng dẫn học sinh tích lũy vốn từ ngữ khi miêu tả người và lựa chọn từ ngữ khi miêu tả. - Diễn đạt có nghệ thuật khi miêu tả người. - Viết văn có cảm xúc của mình qua bài viết. PHẦN 3. BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT: Dựa theo phương pháp chung của thể loại văn miêu tả, tôi lần lượt thực hiện các biện pháp sau: 1. Giúp học sinh nắm chắc yêu cầu của đề bài. Bùi Thị Thủ Lĩnh trang 1 SKKN:“Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 5 học tốt kiểu bài tập làm văn tả người”. Chú ý khi tìm ý: Mỗi đặc điểm thường gắn với một bộ phận của ngoại hình như: - Khuôn mặt: ví dụ khuôn mặt chữ điền,... - Mái tóc: ví dụ mái tóc cắt ngắn. - Đôi mắt: ví dụ đôi mắt tròn xoe sáng long lanh,...Các đặc điểm được tả có thể là đường nét, màu sắc, nét hấp dẫn nhất của bộ phận ngoại hình được tả. Nhiều khi đặc điểm ngoại hình gợi ra tính tình của người được tả. - Tả hoạt động: Hoạt động thứ nhất, thứ hai, hoạt động thứ ba, * Lưu ý : Có thể tả các hoạt động cụ thể của người được tả. - Ví dụ: Thầy cô dạy học hoặc chăm sóc học sinh, khuyên bảo học sinh từ đó nói lên tính tình của người được tả. Nên chọn bài văn miêu tả sao cho thể hiện tình cảm, cảm xúc của em. c) Kết bài: - Nêu ảnh hưởng tốt của người được tả đối với em như: Cô hoặc thầy là tấm gương về lòng nhân hậu hoặc tấm gương về tinh thần học tập và làm việc tích cực em noi theo. - Tình cảm của em đối với người được tả. - Ví dụ: em mong muốn sau này sẽ trở thành người như thầy cô mong đợi, hoặc mong ước thầy cô sẽ có nhiều học trò ngoan, 2.2. Tập nói theo dàn ý đã lập. Sau khi tìm ra đặc điểm của từng người, các em có thể chọn đặc điểm riêng biệt bỏ qua đặc điểm chung không gây ấn tượng như: khi tả cô giáo của mình các em chọn tả đặc điểm tóc, da, khuôn mặt, mắt,... Tóm lại: Cho dù làm bài tại lớp hay về nhà, tôi luôn nhắc nhở các em phải lập nhanh một dàn bài. 3. Hướng dẫn học sinh ghi nhận các nhận xét do quan sát mang lại. Khi trình bày kết quả quan sát để xây dựng dàn bài, tôi hướng dẫn học sinh trả lời bằng nhiều chi tiết để giúp nội dung bài văn của học sinh vừa đủ ý chính vừa phong phú. * Ví dụ: Bài tả người (tiết 39 - tuần 20) Đề: Tả hình dáng và những nết tốt của một bạn trong lớp em và được nhiều người quý mến. Tôi tổ chức cho các em quan sát bạn trên lớp tôi treo một số tranh ảnh bạn khác nhau để các em tiện nhớ lại. Sau đó tổ chức cho các em trình bày dàn ý theo phương pháp toa xe lửa. Bùi Thị Thủ Lĩnh trang 3 SKKN:“Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 5 học tốt kiểu bài tập làm văn tả người”. 4. Hướng dẫn học sinh tích lũy vốn từ ngữ khi miêu tả người và lựa chọn từ ngữ khi miêu tả: a) Tạo điều kiện để học sinh tích lũy vốn từ ngữ khi miêu tả người: Qua tiết tập làm văn (tìm hiểu đề, làm dàn bài chi tiết) đầu tiên của kiểu bài tả người tôi nhận thấy đa số học sinh còn thiếu vốn từ ngữ miêu tả người. Đại khái học sinh chỉ tìm được những từ đơn như: Cao, lùn, ốm, mập, để tả dáng người hay các từ tròn, dài, để tả khuôn mặt. Do đó tôi cho các em ghi vào tập chuẩn bị bài ở nhà để ghi lại một số từ ngữ dùng để miêu tả người nhằm góp phần tăng thêm vốn từ cho các em, cụ thể: - Thông qua các bài tập đọc, tôi chỉ ra những từ ngữ hay có thể áp dụng tả người. - Tôi yêu cầu học sinh đánh dấu rồi về nhà ghi vào tập chuẩn bị bài, sau đó tôi yêu cầu học sinh nộp lại tập để tôi kiểm tra lại. - Ví dụ: Bài “ Thư gửi các học sinh” tôi chỉ ra các từ: “ vui vẻ, sung sướng, may mắn, siêng năng học tập, ngoan ngoãn, nghe thầy, yêu bạn”. - Ví dụ: Bài “ Lời khuyên của bố” thì có từ “ hăng say, phấn khởi”. - Ví dụ: Bài “ Bài học quý” thì có từ “ cẩn thận, xinh xắn”. - Thông qua dạy luyện từ và câu tôi mở rộng từ miêu tả người. - Ví dụ: Bài “ Từ đơn, từ ghép, từ láy” thông qua bài tập 2 tìm 3 từ ghép hoặc 3 từ láy nói về đức tính của người học sinh giỏi. Học sinh tìm từ “ thông minh” tôi mở rộng thêm “ sáng dạ”. Học sinh tìm từ “ siêng năng” tôi mở rộng thêm “chăm chỉ”. Học sinh tìm từ “ vui tính” tôi mở rộng thêm “ cởi mở”. Mặt khác, tôi yêu cầu học sinh về nhà tự tìm từ ngữ tả hình dáng, tính tình sự hoạt động của người ghi ra nháp. Trong buổi phụ đạo học sinh hàng tuần, tôi chọn một buổi cho cả lớp tổng hợp các từ đã tìm. Tôi bổ sung và chốt lại cho học sinh ghi vào tập. - Những từ ngữ tả hình dáng: Tả hình dáng, dáng người: Cao, thấp, gầy gò, ốm yếu, nhỏ bé, mảnh khảnh, dong dỏng, thon thả, lực lưỡng, vạm vỡ, trẻ trung, cường tráng, bụ bẫm, sổ sữa, Tả khuôn mặt, diện mạo: Bầu bĩnh hồng hào, rám nắng, xanh xao, không còn chút máu, trái xoan, sáng sủa, khôi ngô, xấu xí, tươi tỉnh, niềm nở, hớn hở, ủ rũ, thơ ngây, nhăn nheo, đăm chiêu, hiền hậu, dễ thương, Tả làn da: Trắng nõn, trắng trẻo, nõn nà, mịn màng, đỏ thắm, đen sạm, ngăm ngăm, ngăm đen, Tả mắt: Đen huyền, đen láy, trong sáng, u buồn, thâm quầng, đỏ ngầu, một mí, bồ câu, ti hí,. Những từ ngữ tả tính tình: Diễn tả tính cách: nóng nảy, khoác lác, hấp tấp, ít nói, nhã nhặn, thật thà, nhút nhát, siêng năng, ngoan ngoãn, Diễn tả thái độ: Vui sướng, hớn hở, khoái chí, vui thích, vui mừng, Bùi Thị Thủ Lĩnh trang 5 SKKN:“Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 5 học tốt kiểu bài tập làm văn tả người”. Học sinh trả lời, tôi sửa lại như sau: Mái tóc dài mượt mà buông thả như dòng suối. Nước da trắng hồng. Hàm răng trắng đều như hạt bắp. Cô hiền như cô tiên. Giọng nói cô êm dịu như lời mẹ hát. Có thể dùng biện pháp nghệ thuật xen miêu tả hoặc lồng cảm xúc khi miêu tả cũng tăng chất lượng bài văn. Tóm lại: Thông qua môn học này, người giáo viên có thể khéo léo khai thác để làm giàu vốn từ ngữ cho học sinh (từ ngữ miêu tả) và giúp học sinh biết cách sử dụng chúng một cách hợp lí. 6. Viết văn có cảm xúc và cảm xúc chân thật. Bài văn hay không thể thiếu cảm xúc người viết. Thông thường học sinh không biết biểu lộ cảm xúc khi miêu tả mà chỉ có cảm xúc ở kết luận và cảm xúc đó thường hay thiếu tự nhiên. Có lẽ điều đó các em chưa quen khi học ở những lớp dưới. Chúng ta cần giúp học sinh nắm rõ. Cảm xúc thường thể hiện ở từng câu, đoạn của bài văn.Tôi gợi ý cho học sinh biểu lộ cảm xúc cụ thể trong từng đề bài. Ví dụ: Đề bài tả người thân của em. Tôi gợi ý: Nếu tả ông (bà), lâu lâu gặp lại ông (bà) em có cảm giác gì? Sống với ông (bà) em thấy thế nào? (Bà gần gũi yêu thương, chăm sóc em rất chu đáo,). Được bà chăm sóc hằng ngày em nghĩ gì? Em thích điểm nào ở bà nhất? (Đôi mắt hiền từ nhìn em tràn đầy tình thương mến). Muốn đạt được cảm xúc chân thật, tự nhiên phải nuôi dưỡng ở học sinh tâm hồn trong sáng, cái nhìn hồn nhiên hơn. Rèn kỹ năng tự kiểm tra đánh giá khả năng của mình và của bạn: Đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học là tư duy cụ thể. Do đó trong giảng dạy, giáo viên cần đưa ra những ví dụ cụ thể để học sinh hình dung, hiểu rõ cách làm. Vì vậy trong các giờ trả bài viết, sau khi nhận xét và hướng dẫn học sinh chữa lỗi, tôi chọn những bài văn hay, đọc cho cả lớp cùng nghe. Đọc xong, tôi đặt ra một số câu hỏi để các em trả lời. Ví dụ: Bài làm của bạn hay ở chỗ nào? Sáng tạo ở chỗ nào? Em học tập được những gì từ bài làm của bạn?...Trả lời đúng các câu hỏi của giáo viên đặt ra là học sinh đã học tập được chính bạn của mình. Ngoài ra trong quá trình dạy học, tôi tích lũy được rất nhiều những bài văn hay của học sinh trong các năm học trước, tôi đọc cho các em nghe rồi cùng các em phân tích cái hay, cái cần học tập trong từng bài văn. Ngoài các biện pháp trên, tôi khuyến khích các em lập sổ tay văn học và hướng dẫn các em cách sử dụng. Sổ tay văn học để ghi những câu văn hay, giàu hình ảnh, các câu văn sử dụng các biện pháp nghệ thuật đặc sắc mà các em đọc được trong sách báo, sách tham khảo, trong cuộc sống hàng ngày và trên các Bùi Thị Thủ Lĩnh trang 7 SKKN:“Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 5 học tốt kiểu bài tập làm văn tả người”. phong phú hơn, dùng từ chính xác hơn. Vì vậy giai đoạn giữa học kì 1 không có học sinh hoàn thành tốt, cuối học kì 1 đạt được 8 em, đến giữa học kì 2 đạt 10 em. + Số học sinh hoàn thành, các em viết bài hay hơn trước, diễn đạt ý rõ ràng hơn, có sử dụng biện pháp so sánh khi miêu tả. + Số học sinh chưa hoàn thành giữa học kì 1 có 10 em, đến giai đoạn giữa học kì 2 không có học sinh chưa hoàn thành. Bài viết của các em không còn lạc đề, không còn mắc lỗi chính tả nữa. Mặc dù những em này viết văn ý chưa phong phú nhưng đã có nhiều tiến bộ hơn, biết đặt dấu chấm, phẩy đúng nên câu văn trọn ý nghĩa hơn, biết sắp xếp các ý miêu tả rõ ràng hơn, bài viết thể hiện đủ ba phần. Đặc biệt các em có một vốn từ ngữ miêu tả, biết dùng từ để so sánh, nhân hóa làm cho bài văn thêm sinh động hơn. Những biện pháp trên đã giúp bài làm của học sinh đầy đủ hơn về nội dung. Học sinh biết lược bỏ những chi tiết không cần thiết, không đặc sắc. Biết dùng từ tượng hình để cho bài văn thêm sinh động. Tóm lại, các biện pháp trên đã hình thành ở học sinh những kĩ năng cần thiết khi làm văn tả người: Biết làm bài đảm bảo nội dung, nghệ thuật, giàu cảm xúc. PHẦN 5. KẾT LUẬN: I. TÓM LƯỢC GIẢI PHÁP: Qua việc thực hiện đề tài: “ Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 5 học tốt kiểu bài tập làm văn tả người” tôi nhận thấy rằng kết quả thu được không phải có ngay trong một sớm một chiều mà nó là cả một quá trình. Để có hiệu quả cao thì cả giáo viên và học sinh đều phải nỗ lực phấn đấu các yêu cầu sau: - Người giáo viên phải tổ chức cho học sinh nắm chắc yêu cầu đề bài, đưa những tình huống có vấn đề một cách nhẹ nhàng, khơi dậy và kích thích để học sinh chủ động một cách tích cực tham gia vào các hoạt động, học sinh tự tìm tòi, khám phá để lĩnh hội tri thức. - Khi tổ chức các hoạt động giáo viên phải tạo điều kiện cho tất cả học sinh tham gia quan sát, tìm ý, lập dàn bài chi tiết, giúp đỡ học sinh sửa chữa kịp thời những sai sót. - Giáo viên phải thường xuyên hướng dẫn học sinh ghi lại các nhận xét qua quá trình quan sát. Đồng thời dự giờ rút kinh nghiệm để tự đánh giá ưu - khuyết điểm của mình trong giảng dạy và học tập kinh nghiệm của đồng nghiệp để dạy tốt hơn. - Để hướng dẫn học sinh tích lũy vốn từ ngữ và chọn từ ngữ khi miêu tả. Giáo viên tự nghiên cứu, tự học để nâng cao chuyên môn nghiệp vụ sư phạm. - Luôn kiểm tra đánh giá kiến thức đạt được của học sinh. Nhận xét đánh giá thường xuyên vào các tiết củng cố buổi chiều. Những bài viết có sử dụng nghệ thuật khi miêu tả. Cũng như cảm xúc của học sinh khi viết bài. Bùi Thị Thủ Lĩnh trang 9
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_kinh_nghiem_giup_hoc_sinh_lop_5.doc