Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp giúp học sinh Lớp 5 học tập có hiệu quả Tập làm văn miêu tả Trường TH Văn Cao

doc 21 trang thanh 22/01/2024 1140
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp giúp học sinh Lớp 5 học tập có hiệu quả Tập làm văn miêu tả Trường TH Văn Cao", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp giúp học sinh Lớp 5 học tập có hiệu quả Tập làm văn miêu tả Trường TH Văn Cao

Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp giúp học sinh Lớp 5 học tập có hiệu quả Tập làm văn miêu tả Trường TH Văn Cao
 1
 PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO HUYỆN VỤ BẢN
 TRƯỜNG TIỂU HỌC VĂN CAO
 --------------------
 Đề tài :
BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 5 HỌC TẬP 
 CÓ HIỆU QUẢ TẬP LÀM VĂN MIÊU TẢ
 NĂM HỌC : 2016- 2017
 Tác giả : Nguyễn Thị Hường
 Chức vụ : Giáo viên
 Tổ : 4-5
 Liên Minh, tháng 05 năm 2017 3
chặt chẽ với nhau. Như vậy, muốn dạy- học có hiệu quả Tập làm văn miêu tả (tả 
cảnh, tả người) nhất thiết người giáo viên phải dạy tốt Tập đọc, Kể chuyện, Chính 
tả, Luyện từ và câu. Vì trong các bài đọc, trong câu chuyện, trong các bài tập luyện 
từ- câu thường xuất hiện các đoạn văn, khổ thơ có nội dung miêu tả rất rõ về cảnh 
vật, thiên nhiên, con người,...
 Bài Tập làm văn nếu không sáng tạo sẽ trở thành một bài văn khô cứng, góp 
nhặt của người khác, nội dung bài văn sẽ không hồn nhiên, trong sáng, mới mẻ như 
tâm hồn của các tác giả nhỏ tuổi.
 Chất lượng Tập làm văn là chất lượng của cảm thụ văn học, của các kĩ năng 
nghe, nói, đọc, viết tiếng mẹ đẻ. Cho nên, thầy và trò phải soạn giảng và học tập 
tích cực, nghiêm túc, hiệu quả, mới mong nâng cao một cách bền vững chất lượng 
môn Tiếng Việt ở lớp cuối cấp Tiểu học.
 ▪ Dạy Tập làm văn lớp 5 phải đảm bảo mục tiêu yêu cầu cần đạt về kiến thức, 
 kĩ năng của Chương trình giáo dục phổ thông cấp Tiểu học theo Chuẩn kiến 
 thức, kĩ năng của từng môn học (ban hành kèm theo quyết định số 16 của Bộ 
 GD-ĐT) và phù hợp trình độ của từng học sinh trong lớp mà “Hướng dẫn 
 896” của Bộ GD-ĐT đã đề ra.
 ▪ Tôi tin rằng đề tài này nếu được áp dụng và vận dụng hợp lý sẽ đem lại hiệu 
 quả cao cho phân môn Tập làm văn, góp phần nâng cao chất lượng môn 
 Tiếng Việt lớp 4, lớp 5.
IV. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Thực trạng học sinh:
 Năm nay (2016 – 2017), tôi được phân công phụ trách lớp 5C với 30 học 
sinh. Hầu hết 30 học sinh của lớp 5C tôi chủ nhiệm còn rất hạn chế khi làm bài 
Tập làm văn. Sau khi nghiên cứu sách Hướng dẫn học Tiếng Việt 4, tôi nhận thấy 
học sinh lớp 4 đã được học văn miêu tả về đồ vật, cây cối, con vật. Nhưng qua 
khảo sát chất lượng đầu năm học này, đã có 60,8% học sinh bị điểm yếu về Tập 
làm văn, dẫn đến môn Tiếng Việt của lớp tôi yếu 26,1 %. 
 o Các hạn chế của học sinh là:
 ▪ Bài viết của học sinh còn mắc nhiều lỗi chính tả.
 ▪ Học sinh chưa xác định được trọng tâm đề bài cần miêu tả.
 ▪ Nhiều em thường liệt kê, kể lể dài dòng, diễn đạt vụng về, lủng củng. 
 Nhiều em chưa biết dừng lại để nói kĩ một vài chi tiết cụ thể nổi bật.
 ▪ Vốn từ ngữ của các em còn nghèo nàn, khuôn sáo, quan sát sự vật còn hời 
 hợt. 
 ▪ Các em chưa biết cách dùng các biện pháp nghệ thuật khi miêu tả.
 Thực trạng học sinh còn nhiều hạn chế như vậy đã làm cho tiết Tập làm văn 
trở thành một gánh nặng, một thách thức đối với giáo viên tiểu học. Ý nghĩ cho 
rằng Tập làm văn là một phân môn khó dạy, khó học và khó đạt hiệu quả cao đã là 
nhận thức chung của nhiều thầy cô giáo dạy lớp 4, lớp 5.
 Đâu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng chất lượng Tập làm văn của học sinh 
không đạt yêu cầu ? Qua quá trình giảng dạy lớp 5, tôi nhận thấy học sinh học yếu 
Tập làm văn là do nhiều nguyên nhân. 5
 Trong phần dạy bài mới, giáo viên phải nắm vững trình tự dạy đối với hai loại 
bài Tập làm văn: loại bài dạy lý thuyết và loại bài dạy thực hành. Khi dạy từng 
loại bài, giáo viên cần chú ý đến các đối tượng học sinh của lớp: có nội dung cho 
học sinh khá, giỏi; có nội dung cho học sinh trung bình, yếu,...
 Ví dụ: 
 Muốn dạy học sinh làm văn miêu tả đạt yêu cầu thì giáo viên cần biết thế 
 nào là văn miêu tả, đặc điểm thể loại văn miêu tả, biết yếu tố nào là quan trọng và 
 cần thiết để giúp học sinh làm được bài văn miêu tả sinh động thông qua quan sát 
 đối tượng miêu tả (Nội dung này nằm trong bước chuẩn bị bài mới của giáo viên).
2. Rèn luyện kĩ năng quan sát cho học sinh
 Miêu tả là vẽ lại bằng lời những đặc điểm nổi bật của cảnh, của người để 
giúp người nghe, người đọc hình dung được các đối tượng ấy (SHDH Tiếng 
Việt 4 tập 1, trang 140), tức là lấy câu văn để biểu hiện các đặc tính, chân tướng sự 
vật, giúp người đọc như được nhìn tận mắt, sờ tận tay vào sự vật miêu tả. Vì vậy, 
khi dạy văn miêu tả, giáo viên cần chú ý hướng dẫn học sinh quan sát và miêu tả 
theo các trình tự hợp lý :
 a. Tả theo trình tự không gian:
 Quan sát toàn bộ trước rồi đến quan sát từng bộ phận, tả từ xa đến gần, từ 
ngoài vào trong, từ trái qua phải,... (hoặc ngược lại). Ở lớp 4, lớp 5 trình tự này 
được vận dụng khi miêu tả loài vật, đồ vật, cảnh vật,...
 Ví dụ 1: 
 Tả từ ngoài vào trong: “ Đền Thượng nằm chót vót trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh. 
Trước đền, những khóm hải đường đâm bông rực đỏ, những cánh bướm nhiều màu 
sắc bay dập dờn như đang múa quạt xoè hoa. Trong đền dòng chữ vàng Nam Quốc 
Sơn Hà uy nghiêm đề ở bức hoành phi treo chính giữa.”
 Ví dụ 2: 
 Tả từ dưới lên trên “ Cây hồi thẳng, cao, tròn xoe. Cành hồi giòn, dễ gãy hơn 
cành khế. Quả hồi phơi mình xoè trên mặt lá đầu cành” (Rừng hồi xứ Lạng).
 b. Tả theo trình tự thời gian:
 Cái gì xảy ra trước (có trước) thì miêu tả trước. Cái gì xảy ra sau (có sau) thì 
miêu tả sau. Trình tự này thường được vận dụng khi làm Tập làm văn miêu tả cảnh 
vật hay tả cảnh sinh hoạt của người .
 Ví dụ 1: 
 “...Buổi chiều, xe dừng lại ở một thị trấn nhỏ. Nắng phố huyện vàng hoe. 
Những em bé Hmông, những em bé Tu Dí, Phù Lá cổ đeo móng hổ, quần áo sặc sỡ 
đang chơi đùa trước cửa hàng. Hoàng hôn, áp phiên của phiên chợ thị trấn, người 
ngựa dập dìu chìm trong sương núi tím nhạt” (Đường đi Sa Pa- Tiếng Việt 4).
 Ví dụ 2: 
 “Thảo quả trên rừng Đản Khao đã chín nục. Chẳng có thứ quả nào hương 
thơm lại ngây ngất kì lạ đến như thế. Mới đầu xuân năm kia, những hạt thảo quả 
gieo trên đất rừng qua một năm, đã lớn cao đến bụng người. Một năm sau nữa, từ 
một thân lẻ, thảo quả đâm thêm hai nhánh mới. Sự sinh sôi sao mà mạnh mẽ vậy.”
 c. Tả theo trình tự tâm lí: 7
 Khi xác định yêu cầu trọng tâm của đề bài, giáo viên phải làm sao giúp học 
sinh hiểu được rằng việc viết đúng yêu cầu của đề bài là yếu tố quyết định nội 
dung bài viết:
 Với đề bài trên, ẩn chứa 3 yêu cầu sau:
 a. Yêu cầu về thể loại của đề là: Miêu tả (thể hiện ở từ “Tả”).
 b. Yêu cầu về nội dung là: Buổi sáng (hoặc trưa, chiều) thể hiện ở cụm từ 
“cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều)”.
 c. Yêu cầu về trọng tâm là: Ở trong một vườn cây (hay trong công viên.).
 Trong thực tế, không phải đề bài nào cũng xác định đủ 3 yêu cầu. Như đề bài 
“Tả một cơn mưa” chỉ có yêu cầu về thể loại và nội dung. Với đề bài này, giáo 
viên cần giúp học sinh tự xác định thêm yêu cầu về trọng tâm của bài viết. Chẳng 
hạn “Tả một cơn mưa khi em đang trên đường đi học”...
 Việc xác định đúng trọng tâm của đề sẽ giúp cho bài viết được thu hẹp nên 
các em có được ý cụ thể, chính xác, tránh việc viết tràn lan, chung chung,...
4. Giúp học sinh nắm đặc điểm của từng kiểu bài miêu tả:
 ▪ Giáo viên giúp học sinh biết dùng lời văn phù hợp với yêu cầu về nội dung 
 và thể loại cho trước, khi luyện tập. Giáo viên cũng cần lưu ý nhắc nhở các 
 em nắm vững các đặc điểm của mỗi thể loại, mỗi dạng bài và xác định đối 
 tượng miêu tả. Trong mỗi bài văn phải thể hiện cái mới cái hay, cái riêng và 
 cảm xúc của mình.
 ✓ KIỂU BÀI TẢ CẢNH: Cần xác định các yêu cầu sau:
 a. Xác định không gian, thời gian nhất định:
 Sau khi xác định thời gian, không gian nhất định học sinh cần biết lựa chọn 
trình tự quan sát. Việc quan sát có thể tiến hành ở những vị trí khác nhau nhưng 
vẫn phải có một vị trí chủ yếu làm cho cảnh được quan sát bộc lộ ra những điều cơ 
bản nhất của nó. Khi đã xác định được vị trí quan sát rồi, ta nên có cái nhìn bao 
quát toàn cảnh đồng thời phải biết phân chia cảnh ra thành từng mảng, từng phần 
để quan sát.
 b. Xác định trình tự miêu tả:
 Khi tả phải xác định một trình tự miêu tả phù hợp với cảnh được tả. Tả từ trên 
xuống hay từ dưới lên, từ phải sang trái hay từ ngoài vào trong... là tuỳ thuộc đặc 
điểm của cảnh.
 c. Chọn nét tiêu biểu:
 Chỉ nên chọn nét tiêu biểu nhất của cảnh để tả, tập trung làm nổi bật đặc điểm 
đó lên, có thể tả xen hoạt động của người, của vật, ... trong cảnh để góp phần làm 
cho cảnh sinh động hơn, đẹp hơn.
 d. Tả cảnh gắn với cảm xúc riêng bằng nhiều giác quan:
 Tả cảnh luôn luôn gắn với cảm xúc của người viết. Cảnh vật mang theo trong 
nó cuộc sống riêng với những đặc điểm riêng. Con người cảm nhận cảnh như thế 
nào sẽ đem đến cho cảnh những tình cảm như thế. Nhà thơ Lê Anh Xuân, trong 
niềm vui của ngày Tổ quốc hoàn toàn thống nhất, đất nước thoát khỏi ách ngoại 
xâm, bằng tâm trạng hạnh phúc nhất, ông đã thốt lên: 9
 Khi tả người, điều cần nhất là quan sát trực tiếp hoặc trò chuyện, trao đổi ý 
kiến với người đó. Quan sát khuôn mặt, dáng đi, nghe giọng nói, xem xét cách nói, 
cử chỉ, thao tác lúc làm việcđể rút ra nét nổi bật... (chọn và quan sát người định 
tả trong thời gian chuẩn bị bài mới ở nhà). Ta cũng cần dùng cách quan sát gián 
tiếp là thông qua trí nhớ hoặc nhận xét của một người khác về người định tả để bổ 
sung những thông tin cần thiết.
 c. Tả kết hợp ngoại hình, tính nết, hoạt động:
 Khi miêu tả có thể tách riêng từng mặt,từng bộ phận để tả nhưng để nội dung 
bài văn miêu tả đạt được sự gắn bó, súc tích ta nên kết hợp tả ngoại hình, tính nết 
đan xen với tả hoạt động.
 d. Tả những nét tiêu biểu bằng tình cảm chân thật của mình:
 Khi tả người, điều quan trọng là cần tả chân thật những nét tiêu biểu về người 
đó, không cần phải tô điểm người mình tả bằng những hình ảnh hoa mĩ, vẽ nên 
một hình ảnh toàn diện. Làm như vậy bài văn sẽ trở nên khuôn sáo, thiếu sự chân 
thật làm người đọc cảm thấy khó chịu. Thầy cô giáo cần lưu ý học sinh rằng, trong 
mỗi con người ai cũng có chỗ khiếm khuyết nhưng nét đẹp thì bao giờ cũng nhiều 
hơn (đẹp về hình thể, đẹp về tính cách, đẹp về tâm hồn.) Nếu học sinh phát hiện, 
cảm nhận được và biết tả hết các đặc điểm đó thì sẽ làm cho bài văn miêu tả của 
các em sinh động, hồn nhiên đầy cảm xúc và người đọc dễ chấp nhận hơn.
Ví dụ: 
 Trong bài văn tả “Cô Chấm” (sách HDH Tiếng Việt 5- tập 2A- trang 156) nhà 
văn Đào Vũ đã viết: “Chấm không phải là cô con gái đẹp, nhưng là người mà ai đã 
gặp thì không thể lẫn lộn với bất cứ một người nào khác.”
 “Chấm cứ như một cây xương rồng. Cây xương rồng chặt ngang chặt dọc, chỉ 
cần cắm nó xuống đất, đất cằn cũng được, nó sẽ sống và sẽ lớn lên. Chấm thì cần 
cơm và lao động để sống .”
 “Chấm mộc mạc như hòn đất. Hòn đất ấy bầu bạn với nắng với mưa để cho 
cây lúa mọc lên hết vụ này qua vụ khác, hết năm này qua năm khác...”
5. Làm giàu vốn từ cho học sinh
 ▪ Giáo viên cần có biện pháp làm giàu vốn từ ngữ cho học sinh qua từng bài 
 đọc, từng bài tập ở các môn Tập đọc, Kể chuyện, Luyện từ- câu cùng chủ điểm. 
 Tạo cho học sinh thói quen quan sát, đánh giá, nhìn nhận một sự vật, một 
cảnh vật hay một con người nào đó và thể hiện những điều đã quan sát và đánh giá 
được bằng vốn từ ngữ, ngôn ngữ của mình, kịp thời điều chỉnh những lỗi về dùng 
từ, viết câu, làm văn...
 a. Bài tập làm giàu vốn từ cho học sinh thông qua các phân môn Tiếng Việt:
 ▪ Môn Tập đọc giúp các em hiểu được nghĩa đen, nghĩa bóng, hiểu được nội 
 dung của các đoạn văn, khổ thơ có ý nghĩa miêu tả (cảnh vật, con người,...). Mỗi 
 tiết dạy Tập đọc nên thêm một vài câu hỏi về thể loại, bố cục và trình tự miêu tả 
 của tác giả để học sinh thấm dần về Tập làm văn miêu tả.
 ▪ Môn Luyện từ- câu là môn có thể giúp học sinh làm giàu vốn từ nhiều nhất 
 khi dạy các tiết Mở rộng vốn từ. Trong các tiết này có các bài tập mở rộng vốn từ 
 rất cụ thể, thiết thực như tìm từ, ghép từ, phát hiện từ miêu tả, dùng từ đặt câu, sắp 

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_bien_phap_giup_hoc_sinh_lop_5_hoc_tap.doc